Bài 2
Đổi mới cơ chế tài chính: đòn bẩy trong đổi mới hoạt động KH&CN
Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập đang là một trong những lực cản đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN). Để tháo gỡ những bất cập đó, ngành KH&CN đang hướng đến việc đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH&CN, trong đó trọng tâm là đổi mới cơ chế tài chính. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đã nhận định: “Đổi mới công tác quản lý nhà nước, đổi mới tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách là khâu đột phá. Tập trung ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc trong công tác kế hoạch, đầu tư, tài chính, đặc biệt là cơ chế cấp phát, thanh quyết toán kinh phí cho hoạt động KH&CN”.
Cơ chế tài chính còn nhiều bất cập
Ở các quốc gia có nền KH&CN phát triển, Nhà nước thực hiện giao quyền tự chủ tối đa cho các nhà khoa học với quy định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ ngân sách và giám sát việc thực hiện. Các nhà khoa học có thể đề xuất đề tài, dự án nghiên cứu bất kỳ khi nào cần thiết, hệ thống quỹ về KH&CN sẽ là nơi đánh giá, lựa chọn các nghiên cứu được đề xuất, sau đó tài trợ kinh phí và theo dõi quá trình thực hiện. Các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội có quyền kiểm tra chi tiêu, chống tham nhũng, lạm quyền cũng như kiểm tra việc thực hiện quy định của Nhà nước đối với các cơ sở nghiên cứu và đối với các nhà khoa học. Cơ chế này phù hợp với đặc thù sáng tạo của hoạt động KH&CN đó là tính rủi ro (mạo hiểm), tính trễ và tính thực tiễn. Vì thế, người làm khoa học phải được trao quyền tự chủ cao, nhưng kèm theo đó trách nhiệm nặng nề đối với sản phẩm khoa học của họ, thôi thúc họ dành trọn tâm huyết cho nghiên cứu.
Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN nói chung và văn bản liên quan đến cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN nói riêng ngày càng được hoàn thiện. Đã có 8 đạo luật chuyên ngành với gần 300 văn bản hướng dẫn thi hành, tạo lập được hành lang pháp lý tương đối toàn diện cho hoạt động KH&CN. Tuy nhiên, hệ thống văn bản này còn thiếu đồng bộ, chưa cập nhật kịp thời để phù hợp với thực tiễn, tạo ra các vướng mắc cho phát triển KH&CN.
Nước ta đã bước vào nền kinh tế thị trường, nhưng hoạt động KH&CN còn chịu nhiều quy định mang nặng tính hành chính, tư duy của thời bao cấp kế hoạch hóa. Trước hết là công tác xây dựng kế hoạch cho các đề tài, dự án KH&CN hàng năm. Việc áp đặt cơ chế kế hoạch hóa cứng nhắc trong xây dựng các nhiệm vụ KH&CN giống như đối với đầu tư xây dựng cơ bản là điều làm giới khoa học bức xúc nhất hiện nay. Mỗi năm các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước phải được phê duyệt một lần trước ngày 31/7 của năm trước năm kế hoạch, sau đó tổng hợp vào dự toán Ngân sách nhà nước (NSNN), báo cáo Chính phủ và Quốc hội. Sau khi Quốc hội phê chuẩn dự toán NSNN (thường vào tháng 11 hàng năm), Thủ tướng Chính phủ sẽ giao kinh phí thực hiện cho các Bộ, ngành, địa phương vào đầu năm của năm kế hoạch. Để phê duyệt được danh mục các nhiệm vụ KH&CN theo cách làm này và xây dựng dự toán kinh phí phải trải qua quy trình phức tạp, mất nhiều thời gian: đề xuất nhiệm vụ; thông qua hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ; xây dựng thuyết minh, dự toán; thông qua hội đồng xét chọn, tuyển chọn, các hội đồng thẩm định nội dung, kinh phí; sau đó là phê duyệt. Quy trình này thường mất khoảng 3- 9 tháng. Tuy nhiên sau khi các nhiệm vụ được phê duyệt, thường phải chờ 6-7 tháng mới được giao kinh phí, vì vậy từ khi hướng dẫn lập kế hoạch đến khi có kinh phí để thực hiện, thường mất 9-15 tháng (cá biệt như năm 2011 và năm 2012 phải mất hơn 2 năm). Nhiều nhiệm vụ khi được cấp kinh phí đã không còn tính thời sự hoặc không đủ kinh phí để triển khai do lạm phát cao. Điều này không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN, chưa tạo điều kiện cho các nhà khoa học triển khai nghiên cứu kịp thời, hiệu quả.
Cùng với đó, tất cả nhiệm vụ KH&CN khi xây dựng và phê duyệt phải kèm theo dự toán kinh phí chi tiết với các nội dung chi cụ thể theo các định mức được quy định. Đối với những nội dung khoa học nếu không có định mức thì được thực hiện bằng chuyên đề hoặc thuê khoán chuyên môn. Thực tế đối với việc nghiên cứu khoa học, có thể khẳng định không phải tất cả nội dung đều có thể xác định cụ thể được từ trước khi triển khai, ví dụ như cần làm bao nhiêu thí nghiệm, sử dụng hết bao nhiêu nguyên vật liệu để nghiên cứu thành công, v.v. Và nhiều nội dung mang tính sáng tạo trừu tượng không thể có định mức chuẩn được. Hơn nữa, hệ thống định mức thấp và lạc hậu dẫn tới tình trạng các nhà khoa học phải lập dự toán kinh phí bằng cách chia nhỏ nội dung thành hàng trăm chuyên đề để hợp thức hóa chứng từ. Điều này trái với bản chất của hoạt động nghiên cứu là trung thực và làm nản lòng các nhà khoa học.
Một bất cập khác đối với dự toán kinh phí của các nhiệm vụ KH&CN là trong dự toán không có nội dung chi lương và hoạt động bộ máy. Điều này chỉ phù hợp khi tất cả các tổ chức KH&CN đều là tổ chức công lập. Các tổ chức này đã được Nhà nước chi lương và hoạt động bộ máy nên các nội dung chi này không được đưa vào dự toán kinh phí của nhiệm vụ. Tuy nhiên, sau khi Luật khoa học và công nghệ năm 2000 được ban hành, số lượng các tổ chức KH&CN khu vực ngoài nhà nước đã tăng lên một cách nhanh chóng (đến nay đã có trên 900 tổ chức KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế trong tổng số 1.600 tổ chức KH&CN cả nước). Khác với các tổ chức công lập, các tổ chức này không được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên. Vì vậy, họ phải tính chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy trong dự toán kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Điều này gây ra sự mất bình đẳng về dự toán kinh phí giữa các tổ chức KH&CN công lập và ngoài công lập khi tham gia tuyển chọn, xét chọn các nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN.
Việc điều chỉnh nội dung và kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN phù hợp với thực tế, đảm bảo hiệu quả nghiên cứu cũng là vấn đề phức tạp và gây mệt mỏi cho giới khoa học. Thông tư 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của đề tài, dự án KH&CN sử dụng NSNN là một bước tiến bộ trong đổi mới cơ chế tài chính, quy định tất cả những nội dung liên quan đến con người đều được khoán, và do chủ nhiệm đề tài, dự án KH&CN quyết định trên cơ sở phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, trên thực tế các kho bạc vẫn kiểm soát chi theo dự toán đã được phê duyệt. Nhà khoa học muốn tạm ứng hoặc quyết toán kinh phí vẫn phải theo đúng các nội dung của dự toán. Khi có biến độ về giá hoặc cần thay đổi nội dung nghiên cứu cho phù hợp, thủ tục xin phép điều chỉnh dự toán lại rất mất thời gian và phức tạp, qua nhiều cấp có thẩm quyền, vì thế các nhà khoa học thay vì xin phép điều chỉnh kinh phí đành phải hợp thức hóa chứng từ cho khớp với dự toán đã được phê duyệt.
Thêm vào đó, thủ tục thanh quyết toán đề tài, dự án hiện vẫn rườm rà, phức tạp. Quy định quyết toán theo năm tài chính (kể cả để chuyển nguồn) làm các nhà khoa học phải mất một phần lớn thời gian vào công việc thanh quyết toán. Có nhiều nhiệm vụ, do nhận được kinh phí chậm, chưa kịp triển khai các nội dung theo dự toán đã đến hạn phải làm quyết toán năm. Các định mức tài chính lại không được cập nhật thường xuyên, nhất là trong bối cảnh lạm phát cao hiện nay. Ví dụ, quy định hiện hành hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NSNN đã được ban hành từ năm 2007 (Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN). Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, lương tối thiểu đã tăng gấp 3 lần (từ 350.000đ/tháng lên 1.050.000đ/tháng) nhưng định mức vẫn chưa thay đổi. Với định mức lạc hậu như vậy, việc các nhà khoa học dự một hội thảo khoa học nhưng phải ký 3-4 chữ ký để hợp thức hóa khoản thực chi là việc tương đối phổ biến hiện nay. Các cơ quan quản lý về tài chính đều biết rất rõ và mặc nhiên chấp nhận thay vì nhanh chóng đưa ra các định mức phù hợp hơn. Việc thiếu trung thực như vậy trong các hoạt động nghiên cứu khoa học không phải là hiện tượng hiếm và là việc cực chẳng đã, gây tổn thương lớn đến uy tín và lòng tự trọng của giới khoa học. Ngay cả các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước khi tham gia hoạt động nghiên cứu cũng đã phàn nàn về việc này.
Bất cập khác trong cơ chế tài chính liên quan đến việc giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu. Các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN thì về nguyên tắc kết quả sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có nguồn gốc NSNN cho các tổ chức, cá nhân, nhưng trên thực tế chúng ta đang thiếu các hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định này, dẫn tới việc các nhà khoa học, không thể chuyển giao kết quả nghiên cứu của mình một cách hợp pháp để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh, nên phải hợp thức hóa việc bán kết quả nghiên cứu thông qua các hợp đồng kinh tế với giá rẻ, gây thiệt hại cho cả Nhà nước và nhà khoa học. Điều này trên thực tế đã hạn chế việc đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, dẫn tới hiện tượng “bỏ ngăn kéo” nhiều đề tài khoa học.
Cần cấp thiết đổi mới cơ chế tài chính
Quan điểm xây dựng kế hoạch nhiệm vụ KH&CN như đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản hoàn toàn không phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN, nếu xét đến tính thời sự, rủi ro và khó định lượng của các nhiệm vụ KH&CN. Ví dụ khi Nhà nước đặt hàng cần nghiên cứu ngay một loại vắcxin phòng bệnh, các nhà khoa học không thể chờ tới 12-18 tháng mới có kinh phí để triển khai. Vì thế, cần nhanh chóng đổi mới công tác xây dựng kế hoạch. Thay vì xây dựng kế hoạch theo năm tài chính hiện nay, các nhiệm vụ KH&CN cần được cấp kinh phí theo tiến độ đề xuất và phê duyệt nhiệm vụ. Để làm được việc này, cơ chế tài chính hiện hành phải được thay bằng cơ chế tài chính áp dụng đối với các quỹ phát triển KH&CN. Trên thực tế, kể từ khi đi vào hoạt động năm 2008, mô hình của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia được các nhà khoa học đánh giá rất cao vì có nhiều ưu điểm vượt trội so với cơ chế cấp phát tài chính hiện hành: cấp kinh phí kịp thời với việc phê duyệt nhiệm vụ; không phải quyết toán theo năm tài chính mà theo hợp đồng triển khai nhiệm vụ; cuối năm kinh phí chưa sử dụng hết tự động chuyển nguồn năm sau mà không phải làm thủ tục xin chuyển nguồn. Có ý kiến lo ngại việc cấp kinh phí qua quỹ có thể khó kiểm soát được chi tiêu ngân sách, nhưng cần hiểu rằng quỹ phát triển KH&CN ở Trung ương và địa phương vẫn là quỹ của Nhà nước và có tài khoản ở Kho bạc nhà nước nên NSNN cấp qua quỹ hoàn toàn có thể kiểm soát được, đồng thời phải có quy định chặt chẽ về chế độ báo cáo với cơ quan quản lý tài chính. Đây cũng là cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế, ở các nước phát triển thì quỹ là cơ quan chính thực hiện cấp phát kinh phí cho các đề tài nghiên cứu KH&CN. Để làm tốt việc này, cần thực hiện quy định của Quyết định 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, giao quyền xác định tỉ lệ phân bổ NSNN hàng năm cho hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D) và cấp kinh phí này vào hệ thống quỹ phát triển KH&CN hoặc cấp qua kho bạc nhưng theo cơ chế quỹ của nhà nước trong lĩnh vực KH&CN. Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xây dựng và phê duyệt nhiệm vụ theo đặt hàng của Nhà nước và doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới và bổ sung nội dung của dự toán kinh phí cũng là một trong những giải pháp quan trọng. Cần đưa chi phí tiền lương và hoạt động bộ máy vào dự toán của nhiệm vụ KH&CN để đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức KH&CN trong và ngoài công lập. Điều này phù hợp với việc thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập và Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Theo cơ chế này, Nhà nước sẽ không cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức KH&CN công lập theo số lượng biên chế như hiện nay mà chuyển sang cấp kinh phí theo nhiệm vụ, bao gồm cả nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KH&CN và nhiệm vụ KH&CN (đề tài, dự án KH&CN các cấp). Hiện thông tư liên tịch hướng dẫn chi tiết vấn đề này đang được Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Tài chính tích cực hoàn thiện để ban hành.
Trước mắt, cần rà soát, cập nhật lại toàn bộ định mức chi cho những công việc có thể định mức theo Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có sử dụng NSNN như kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, đoàn ra,… Có phương án điều chỉnh định mức tài chính kịp thời theo chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) và mức tiền lương tối thiểu để đảm bảo phù hợp với thực tế. Những nội dung chi không thể có định mức trong hoạt động nghiên cứu khoa học cần phải được giao quyền tự chủ, đảm bảo bù đắp được lao động sáng tạo của các nhà khoa học. Đồng thời, bổ sung một số nội dung chi vào dự toán kinh phí, như: đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, tuyên truyền kết quả nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ sau nghiệm thu, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài, kinh phí dự phòng. Cùng với đó, phân cấp mạnh hơn nữa thẩm quyền điều chỉnh nội dung và kinh phí của đề tài cho Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính.
Cuối cùng, cần đổi mới thủ tục thanh quyết toán, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà khoa học, hướng đến kết quả và sản phẩm cuối cùng của nhiệm vụ. Nên đổi mới theo hướng khi kết quả được nghiệm thu thì đề tài tự động được quyết toán, vì trên thực tế, các hóa đơn, chứng từ sẽ không có nhiều ý nghĩa khi kết quả của các đề tài, dự án đã đạt được như cam kết trong hợp đồng, nói khác đi cần thí điểm cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc Nhà nước mua trọn gói kết quả nghiên cứu.
Về việc giao quyền sở hữu tài sản trí tuệ có nguồn gốc NSNN, như đã được Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất trong dự thảo Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi), thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sẽ là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với những kết quả nghiên cứu được tạo ra từ NSNN. Đại diện chủ sở hữu có quyền giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu cho các tổ chức KH&CN, trong đó ưu tiên tổ chức chủ trì đề tài, dự án. Khi đã được giao quyền sở hữu, tổ chức KH&CN có thể chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp, hay dùng quyền sở hữu tài sản trí tuệ đó như vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp KH&CN. Tất nhiên, cần quy định rõ quy trình, thủ tục giao quyền sở hữu và phân chia lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH&CN, và các tác giả của kết quả KH&CN.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã ban hành Nghị quyết mới về phát triển KH&CN, nhấn mạnh đến việc đổi mới cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN như là một trong những giải pháp đột phá để phát triển KH&CN nước ta trong thời kỳ mới. Để triển khai thành công kết quả của Hội nghị Trung ương 6 và đáp ứng sự mong mỏi của cộng đồng các nhà khoa học, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng đối với cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN thông qua Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi) lần này là hết sức cần thiết và sẽ mang lại nhiều thành tựu KH&CN mới, nâng cao hiệu quả của hoạt động KH&CN hiện nay.
Bài 3
Nhân lực Khoa học và Công nghệ: trọng dụng và tôn vinh
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Khoa học và Công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã nhận định “Nhân lực KH&CN là tài nguyên vô giá của đất nước; trí thức KH&CN là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức”.
Nghị quyết số 27 Hội nghị Trung ương 7 khóa X về trí thức cũng khẳng định: “đầu tư cho nhân lực KH&CN, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc”. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm và chính sách đặc biệt phát triển, trọng dụng và phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH&CN để KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ 21.
Quan điểm của Đảng ta về nhân lực KH&CN đã được khẳng định ngay từ những năm đầu tiên Việt Nam giành được độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về trọng dụng nhân tài khoa học, đặc biệt quan tâm tới việc tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt nhất cho các nhân tài hoạt động khoa học. Theo Người, phát hiện nhân tài đã khó nhưng việc khó hơn là làm thế nào để đức tài của họ được phát huy cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những năm 40-50 của thế kỷ XX, đã có nhiều nhân tài người Việt, khâm phục lý tưởng, hoài bão và nhân cách Hồ Chí Minh, đã từ bỏ cuộc sống giàu sang ở nước ngoài, đi theo Người vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ như Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Tiến sĩ Lương Định Của, nhà văn hóa Phạm Huy Thông… Nhiều người trong số đó sau này đã đảm nhận cương vị chủ chốt về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa của đất nước và được tôn vinh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh ngay từ đợt xét tặng đầu tiên cho những công trình khoa học xuất sắc của họ cho đất nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật luôn quan tâm và đề cao vai trò của nhân tài khoa học, nhưng trên thực tế chúng ta hầu như chưa có chính sách cụ thể nào để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy về chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ KH&CN, phải coi đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết kịp thời.
Đãi ngộ cần tương xứng với giá trị đóng góp
Một trong những vấn đề các nhà khoa học quan tâm nhất hiện nay chính là việc thiếu các chính sách đãi ngộ gắn với chăm lo bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức. Không nên quan niệm đãi ngộ giới trí thức giống như các cơ chế, chính sách với người có công hay đối tượng chính sách. Trước khi nghĩ đến đãi ngộ về vật chất, cần tạo điều kiện tốt nhất để nhà khoa học được sáng tạo, cống hiến tài năng, tâm huyết cho đất nước. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế chính sách để nhà khoa học được hưởng thành quả từ lao động sáng tạo, tương xứng với giá trị đóng góp của họ.
Mỗi năm, Nhà nước đầu tư 2% tổng chi ngân sách cho phát triển KH&CN, trong đó gần 90% dành cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên, chỉ còn một khoản kinh phí không lớn cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nếu phân bổ dàn trải như hiện nay sẽ chỉ thu được những công trình không mấy giá trị, thậm chí còn bị “xếp vào ngăn kéo”. Cần thấy rằng nhiều năm qua, việc giao kinh phí nghiên cứu cho các địa phương và các bộ ngành theo kiểu bình quân, dàn trải và không quản lý được hiệu quả đã dẫn tới tình trạng không đủ nguồn lực đầu tư lớn cho những công trình nghiên cứu trọng điểm gắn với nhu cầu thực tiễn, có triển vọng thương mại hóa. Chưa kể cơ chế tài chính chưa phù hợp, đã có những năm số tiền đầu tư cho nghiên cứu khoa học không thể giải ngân hết. Vì vậy, trước hết cần cân đối lại tỷ lệ phân bổ ngân sách, đảm bảo tỷ lệ thích đáng cho nhiệm vụ R&D và tạo điều kiện cho các nhà khoa học được chủ động sử dụng nguồn kinh phí này đi đôi với tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả nghiên cứu, đặc biệt được hưởng lợi chính đáng, hợp pháp từ kết quả nghiên cứu của họ.
Trong chế độ tiền lương, hiện giới viên chức khoa học đang chịu thiệt thòi là đối tượng làm công ăn lương duy nhất không được hưởng các chế độ phụ cấp đặc thù (phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên…) giống như viên chức của ngành giáo dục, y tế hay các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, tiền lương chỉ là một trong những vấn đề, điều mà các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn là điều kiện, môi trường làm việc, tức là họ phải được tin tưởng giao nhiệm vụ, được quyền tự do nghiên cứu và được tạo điều kiện làm việc tốt nhất (như trang thiết bị nghiên cứu hiện đại, phòng thí nghiệm, thư viện, chủ động trong hợp tác quốc tế, có những đồng nghiệp giỏi cùng chí hướng, được quyền mời chuyên gia trong nước và quốc tế cùng nghiên cứu...). Và để làm việc trong môi trường đó, thì họ cần được quyền tự chủ cao về nhân sự và tài chính khi tiến hành các hoạt động nghiên cứu như thông lệ ở các nước phát triển.
Nhìn rộng ra các quốc gia khác có thể thấy, bằng việc áp dụng các chính sách ưu đãi trọng dụng cán bộ KH&CN, nhiều quốc gia đã có bước phát triển thần kỳ trong KH&CN cũng như kinh tế. Một ví dụ điển hình là Hàn Quốc, từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước đã quyết tâm thực hiện chính sách mời các nhà khoa học Hàn Quốc đang làm việc tại nước ngoài về nước làm việc tại Viện KH&CN Hàn Quốc (KIST) với chế độ lương cao gấp 3 lần so với các giáo sư trong nước, kèm theo các chế độ đãi ngộ khác về nhà ở, đầu tư cơ sở vật chất. Kết quả là chỉ sau 40 năm Viện KIST đã trở thành 1 trong 10 viện hàng đầu thế giới và Hàn Quốc cũng trở thành quốc gia công nghiệp hóa thành công nhất. Hay như Trung Quốc hiện nay đang cải cách thế chế hóa khoa học và xây dựng hệ thống nhà nước sáng tạo, trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế phát triển nhân tài, khuyến khích nhà khoa học tích cực sáng tạo, thu hút các nhà khoa học Hoa kiều về nước làm việc với mức lương cao không kém mức lương của họ ở các nước phát triển… Nhờ đó, đến nay Trung Quốc đã đạt tỷ lệ 43 người làm R&D/1 vạn dân, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 : cơ hội phát triển mới
Trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng cũng nêu rõ, để phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH từ nay đến năm 2020, con người là nhân tố quyết định. Vấn đề là làm thế nào để con người được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển KH&CN từ nay đến năm 2020.
Trên thực tế đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có chính sách thỏa đáng để đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học, chưa thu hút được giới trẻ vào ngành khoa học, đồng nghĩa với việc các cơ quan nghiên cứu không tuyển dụng được người tài. Như vậy, chỉ một vài năm nữa, nếu không có giải pháp hữu hiệu Việt Nam sẽ thiếu hụt trầm trọng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có trình độ, đồng thời xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước ra doanh nghiệp, ra nước ngoài…
Vấn đề tiếp theo là thời gian từ nay đến 2020 còn rất ngắn, trong khi mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đòi hỏi phải triển khai thành công các chương trình quốc gia về phát triển KH&CN với nhiệm vụ rất nặng nề. Nếu như không kịp thời có chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài mang tính đột phá thì không thể có những nhà khoa học đầu ngành, những tập thể khoa học mạnh và chúng ta không thể đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020, sản phẩm công nghệ cao (CNC) và sản phẩm ứng dụng CNC chiếm 40% giá trị sản xuất công nghiệp, Việt Nam có nền KH&CN đạt trình độ những nước dẫn đầu ASEAN…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của KH&CN và xuất phát từ tình hình thực tế, vừa qua Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 20 “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó có những nội dung quan trọng liên quan đến phát triển đội ngũ trí thức :
Thứ nhất là cần “xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN; tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để đội ngũ cán bộ KH&CN phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình”.
Thứ hai là “có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ KH&CN đầu ngành, cán bộ KH&CN được giao nhiệm vụ chủ trì các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ KH&CN trẻ tài năng” (mức lương, nhà ở, bổ nhiệm, giao quyền hạn, chế độ tự chủ tài chính…).
Thứ ba là phải “đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ KH&CN. có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ KH&CN trình độ cao đã hết tuổi lao động”. Đồng thời tăng cường bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của tác giả các công trình KH&CN, “hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ KH&CN. Cải tiến hệ thống giải thưởng KH&CN quốc gia, danh hiệu vinh dự nhà nước cho cán bộ KH&CN ”.
Tập trung ưu đãi 3 nhóm đối tượng chính
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, trong Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi), chúng ta cần xây dựng chính sách đãi ngộ một số nhóm đối tượng chính cần được quan tâm đặc biệt, đó là cán bộ KH&CN đầu ngành, cán bộ KH&CN được giao nhiệm vụ chủ trì các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia và cán bộ KH&CN trẻ tài năng. Sở dĩ phải tập trung trọng dụng 3 nhóm đối tượng này vì trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, việc đãi ngộ bằng trả lương cao cho tất cả những người làm khoa học là không thể. Chúng ta không chỉ có hơn 6 vạn người làm nghiên cứu chuyên nghiệp, mà hơn 3 triệu người được đào tạo có trình độ đại học đều có khả năng tham gia hoạt động nghiên cứu, và hàng triệu người dân yêu khoa học cũng có cơ hội đóng góp cho khoa học. Vì thế điểm đột phá chính là tạo điều kiện làm việc tốt và môi trường hoạt động khoa học thuận lợi cho giới khoa học, song song với việc trọng dụng và ưu đãi đặc biệt với một số nhóm đối tượng có vai trò tiên phong trong hoạt động khoa học. Cần phải có tư duy mới: Làm thế nào để cán bộ khoa học được sống tốt bằng chính kết quả sáng tạo của mình trong nền kinh tế thị trường, chứ không thể tiếp tục để giới khoa học bị mang tiếng là muốn làm đề tài, dự án để có thu nhập.
Nội hàm của chính sách trọng dụng cán bộ KH&CN, đặc biệt là tiêu chí xác định thế nào là nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học trẻ tài năng sẽ là một vấn đề mà những người làm quản lý KH&CN phải làm rõ. Các nhà khoa học đầu ngành có thể là các chủ nhiệm bộ môn chuyên ngành trong các trường đại học lớn, trưởng phòng thí nghiệm hoặc nhóm nghiên cứu mạnh trong các viện nghiên cứu trọng điểm có nhiều sản phẩm khoa học đạt trình độ quốc tế, các tổng công trình sư giàu kinh nghiệm thực tiễn. Họ cần được ưu đãi về điều kiện làm việc (phòng thí nghiệm, thư viện, internet, phương tiện đi lại…), chế độ lương và phụ cấp xứng đáng, được quyền đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu và chủ trì các nhóm nghiên cứu, tham gia đào tạo đại học và sau đại học, chủ trì các hội nghị khoa học quốc tế, và quan trọng là được giao tự chủ một khoản kinh phí nhất định hàng năm cho hoạt động khoa học của mình (như kinh nghiệm của các nước phát triển).
Còn các nhà khoa học trẻ tài năng là những sinh viên, nghiên cứu sinh giỏi, cán bộ trẻ có kết quả nghiên cứu xuất sắc, giành được các giải thưởng KH&CN trong nước và nước ngoài, có nhiều công trình công bố quốc tế, có phát minh, sáng chế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho họ tham gia vào các nhiệm vụ khoa học, được tự chủ một khoản kinh phí nhất định để từ ý tưởng khoa học trở thành một đề tài nghiên cứu đi đến sản phẩm cuối cùng.
Riêng các nhà khoa học được giao nhiệm vụ KH&CN quan trọng của quốc gia thì tiêu chí xác định đơn giản hơn, đó là nhà khoa học được nhà nước giao cho đứng đầu một tập thể nghiên cứu để thực hiện một nhiệm vụ KH&CN có tầm quan trọng đối với an ninh, quốc phòng hoặc phát triển kinh tế, nhằm tạo ra công trình, sản phẩm có giá trị cao theo đặt hàng của nhà nước (ví dụ vắc xin bệnh hiểm nghèo, tên lửa hành trình, vệ tinh viễn thông…). Họ phải có quyền tự chủ cao về tài chính và nhân sự, được chủ động đầu tư trang thiết bị cho phòng thí nghiệm hiện đại hoặc sử dụng miễn phí các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, có thể tiếp cận với mọi nguồn thông tin tư liệu từ các thư viện điện tử, thư viện kỹ thuật quan trọng, được quyền điều động và trả lương theo thỏa thuận cho những nhà khoa học giỏi nhất từ các cơ quan khoa học, thậm chí là thuê chuyên gia nước ngoài tham gia quá trình thực hiện nhiệm vụ. Họ có quyền tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế, mua công nghệ, thuê chuyên gia… bằng nguồn kinh phí được giao tự chủ mà không lệ thuộc vào các thủ tục hành chính.
Bên cạnh đó, phải giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu có nguồn gốc ngân sách nhà nước cho giới khoa học, trước mắt là giao cho cơ quan chủ trì các đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước và tập thể tác giả của đề tài dự án, để họ có quyền chuyển nhượng hoặc góp vốn vào doanh nghiệp, có thể dùng làm vốn để lập doanh nghiệp KH&CN. Và khi giao quyền sở hữu để phục vụ sản xuất, kinh doanh cũng quy định rõ việc phân chia lợi ích một cách hợp lý giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và nhà khoa học.
Giao biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học công nghệ trọng điểm
Luật KH&CN (sửa đổi) lần này cũng đề xuất một vấn đề rất quan trọng, đó là giao các biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học công nghệ trọng điểm. Xuất phát từ tình hình thực tế, các trường đại học hầu như chỉ tập trung cho hoạt động đào tạo, còn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học thường bị thả nổi mặc dù là một trong hai nhiệm vụ chính trị của cơ sở giáo dục đại học (theo quy định của Luật giáo dục đại học). Vì thế hầu như không gắn kết được giữa nghiên cứu với đào tạo. Nguyên nhân là do tình trạng quá tải trong giảng dạy nên giảng viên không thể bố trí thời gian cho nghiên cứu, kinh phí nghiên cứu cũng eo hẹp nên đề tài nghiên cứu cấp cơ sở có mức kinh phí rất thấp (chỉ vài chục triệu đồng) không đủ để thực hiện đề tài một cách nghiêm túc, và cuối cùng là do các trường đại học không có biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp và không có nguồn kinh phí thường xuyên để chăm lo cho đội ngũ nghiên cứu.
Chính vì vậy, các trường đại học cần có một đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp và cần dành một phần kinh phí sự nghiệp khoa học để hỗ trợ chi thường xuyên và giao đề tài nghiên cứu cho số cán bộ này. Có ý kiến cho rằng số biên chế này sẽ không yên tâm làm nghiên cứu. Tuy nhiên có thể khắc phục tình trạng đó nếu xác định rõ họ vẫn có quyền tham gia vào công tác đào tạo của các trường đại học, nhưng chỉ hạn chế trong việc giảng dạy các chuyên đề cho sinh viên năm cuối hoặc chuyên đề cho học viên cao học hay nghiên cứu sinh.
Ngoài đề xuất giao biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học trọng điểm, Bộ KH&CN cũng sẽ hợp tác với Bộ GD&ĐT trong chương trình đào tạo sau đại học dùng ngân sách nhà nước hay hợp tác quốc tế để đào tạo các cán bộ có trình độ cao trong nước hay ở nước ngoài. Đồng thời kiến nghị với Bộ Nội vụ việc bổ nhiệm vào ngạch viên chức nên có những đổi mới để những người có trình độ cao có thể được bổ nhiệm đặc cách hoặc được nâng ngạch, nâng bậc tương xứng với trình độ và đóng góp của họ.
Bên cạnh việc đề xuất có danh hiệu vinh dự Nhà nước cho cán bộ khoa học có những thành tích xuất sắc, cũng cần có hình thức tôn vinh thông qua các giải thưởng về KH&CN cho giới khoa học. Đó phải là hệ thống giải thưởng đa dạng và thiết thực chứ không chỉ là giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước về KH&CN đang được thực hiện 5 năm một lần như hiện nay, mà cần có hệ thống các giải thưởng khác từ cấp cơ sở đến cấp Nhà nước về KH&CN.
Nghị quyết Trung ương 6 đã được ban hành, nhưng việc cần làm ngay hiện nay là phải cụ thể hóa bằng pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà nước đối với cán bộ KH&CN. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp tốt của các bộ, ngành, địa phương và sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sao cho sớm hình thành được chính sách thực sự trọng dụng và ưu đãi cán bộ KH&CN, chứ không nên chỉ là “trải thảm đỏ” mời họ về và sau đó họ lại lặng lẽ ra đi khi không được tin tưởng giao nhiệm vụ, không được tạo điều kiện làm việc.
Và hơn ai hết, giới khoa học phải tận dụng được vai trò “quốc sách hàng đầu” của KH&CN, làm việc và sáng tạo cho xứng đáng với sự đãi ngộ của Nhà nước, sự quan tâm của Đảng, để tự khẳng định mình và tạo ra được những sản phẩm khoa học ngang tầm khu vực và thế giới, xứng đáng với mong đợi của đất nước và nhân dân.