Với
sự nỗ lực không ngừng, Ðảng bộ và nhân dân Hải Dương đã đạt được những
thành tựu to lớn: Kinh tế liên tục phát triển với tốc độ cao, ổn định;
tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hơn 10% năm; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Năm
2007, cơ cấu kinh tế nông - lâm - thủy sản đạt 25,5%; công nghiệp - xây
dựng đạt 44%; dịch vụ đạt 30,5%.
Trong
quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống quản lý khoa
học và công nghệ (KHCN) từng bước được kiện toàn; tiềm lực KHCN
được tăng cường cả số lượng và chất lượng. Hoạt động KHCN đã góp phần
tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, nhất là
trong sản xuất nông nghiệp.
Thực
hiện Nghị quyết T.Ư 2 (khóa VIII) về phát triển KHCN đến năm 2010; kết
luận Nghị quyết T.Ư 6 đến năm 2008 về phát triển KHCN, trong 10 năm
qua, tổng số dự án, chương trình, đề tài KHCN của tỉnh là 204 (gồm một
chương trình, 150 đề tài, 53 dự án), trong đó có tám dự án của Bộ
KH&CN. Số được thực hiện là 172, chiếm 84,31%. Tổng số vốn ngân
sách của cả tỉnh và Nhà nước đầu tư 73.293,457 triệu đồng.
Từ
năm 2006 - 2008, sản xuất nông nghiệp của tỉnh liên tục phát triển.
Trong ba năm qua, Hải Dương sản xuất được 2,3 triệu tấn lương thực; hơn
2,1 triệu con lợn, 191,6 nghìn con trâu, bò, 20,8 triệu gia cầm. Giá
trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2007 tăng 7,7% so với năm 2006, năm
2008 tăng 3,6% so với năm 2007.
Ðể
đạt được kết quả như trên, từ năm 1997-2007, Hải Dương tập trung đầu
tư, ứng dụng tiến bộ KHCN cho cây lúa lai, lúa chất lượng; ứng dụng
công nghệ sinh học, duy trì giống bố mẹ để sản xuất giống F1 lai hai
dòng, ba dòng.
Trưởng
phòng Trồng trọt (Sở NN&PTNT) Lê Ðình Sơn, cho biết: Từ năm 2001
đến nay tỉnh liên tục nghiên cứu, ứng dụng sản xuất, phát triển giống
lúa và đạt được nhiều kết quả. Ðể đáp ứng nhu cầu của xã hội, hiện nay
tỉnh chủ trương cho phát triển song song những giống lúa lai và giống
lúa chất lượng, năng suất cao như Syn 6, Q.ưu 1, thục hưng 6, D.ưu
527... cho năng suất mấy năm liên tục tăng từ 6,3 đến 6,4 tấn/ha.
Từ
năm 2008, diện tích sản xuất lúa chất lượng, năng suất cao liên tục
được mở rộng đạt 21.702 ha như huyện Bình Giang (4.162 ha, chiếm 32,4%
diện tích); Gia Lộc (3.503 ha, chiếm 32,6%); Ninh Giang (3.099 ha,
chiếm 22,2% diện tích)... Năng suất vụ chiêm xuân: Giống HT1 đạt 61,55
tạ/ha, BT7, P6 đạt khoảng 61,81 tạ/ha; vụ mùa giống HT1, BT7, P6 đạt
khoảng 54 tạ trên ha... Các giống nếp hoa vàng, nếp xoắn năng suất đạt
khoảng 43,5 tạ/ha. Tổng sản lượng đạt 130.889 tấn. Với số lượng giống
nói trên đã giúp cho nông dân có giống chất lượng tốt, giá thành hạ,
chủ động trong sản xuất giống và dự phòng thiên tai.
Cũng
từ năm 2008, nhiều huyện của tỉnh Hải Dương đã ứng dụng công cụ sạ hàng
(gieo lúa bằng công cụ). Gieo bằng công cụ sạ hàng năng suất tương
đương với làm mạ cấy nhưng đỡ tốn công, lúa mọc khỏe, chăm sóc tốt. Với
một sào gieo sạ người nông dân tiết kiệm được ba lạng thóc giống so với
làm mạ cấy. Nếu như trước đây một sào ruộng người nông dân mất bốn công
cấy trong vài giờ thì bây giờ họ chỉ mất một công sạ hàng cũng bằng
thời gian đó. Ðây được coi là bước tiến mới về ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật của tỉnh, ông Hà Bạch Ðằng - Giám đốc Sở KH&CN Hải
Dương cho biết.
Bên
cạnh những thành tựu đạt được về cây lúa, tỉnh cũng gặp một số khó khăn
như tốc độ phát triển lúa lai chậm; nhận thức của nông dân về sản xuất
hàng hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Ðối với lúa
lai, tỉnh chưa chủ động được giống, phần lớn nguồn giống phải nhập với
giá cao. Hơn nữa, lúa lai mẫn cảm với thời tiết đòi hỏi chi phí lớn,
quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt hơn lúa thuần, rủi ro trong sản xuất cao
và chưa được thị trường ưa chuộng dẫn đến khó tiêu thụ.