EU đẩy mạnh FP tại Việt Nam
Theo
ông Sean Doyle, ASEAN là một khu vực có tầm quan trọng chiến lược với
cộng đồng châu Âu. Đây là nơi có nhiều đối tác kinh tế, nhiều cơ hội
cho việc hợp tác phát triển kinh tế - xã hội (như
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, phát triển nông thôn….), hỗ trợ phát
triển môi trường bền vững và hợp tác nghiên cứu - điểm mấu chốt trong
các FP. Gần đây, có khoảng 79 chương trình hợp tác tại khu vực ASEAN.
Trong đó, Việt Nam đứng đầu với 24 chương trình. Việt Nam
chắc chắn là thành viên tiềm năng nhất trong các thành viên ASEAN đối
với EC. EC đánh giá Việt Nam là thành viên nòng cốt của ASEAN, đóng vai
trò như một ví dụ tiêu biểu trong hợp tác nghiên cứu liên lục địa cho
các thành viên khác của ASEAN và là một nhân tố tích cực thúc đẩy mối
quan hệ ASEAN - EU trong một số lĩnh vực.
Ông Sean Doyle cũng đánh giá cao các nhà khoa học Việt Nam. Theo ông, các nhà khoa học Việt Nam đã đóng góp tích cực vào công tác nghiên cứu, đem lại lợi ích cho cả châu Âu và Việt Nam,
và cả thế giới nói chung. Những đóng góp của họ, đặc biệt là trong lĩnh
vực nông nghiệp, môi truờng, y tế đã giúp các cơ quan thi hành chính
sách và các viện nghiên cứu được trang bị những thành tựu công nghệ mới
nhất. Điều này rất quan trọng với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Ông cho rằng, các nhà khoa học Việt Nam
là những đối tác rất có khả năng trong các chương trình hợp tác nghiên
cứu. Họ đã có những cống hiến cho nghiên cứu và đem lại nhiều lợi ích
cho cả người Việt Nam
và châu Âu. EC mong rằng trong thời gian tới sẽ có nhiều hơn nữa các
nhà khoa học Việt Nam tham gia trong các FP. Hiện nay, EC đang kết hợp
với Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ khoa học và Công nghệ (KH&CN) xúc tiến
triển khai FP7 tại Việt Nam. Tháng 5.2009, Hội thảo quốc tế ASEAN - EU
về xây dựng đề xuất dự án cho FP7 đã được tổ chức thành công tại Hà Nội
và sắp tới sẽ triển khai giới thiệu về FP7 tại một số tỉnh/thành phố
trên cả nước. Thông qua sự hợp tác này, các nhà khoa học ở hai khu vực
sẽ có cơ hội làm việc cùng nhau, cơ hội chia sẻ thông tin cũng như kết
quả nghiên cứu. Điều quan trọng hơn mà cả Việt Nam và EU mong muốn là
thông qua FP7, cộng đồng KH&CN hai khu vực được kết nối chặt chẽ
hơn.
Những cơ hội cho Việt Nam tại FP7
Khác
với các FP trước đó chỉ kéo dài 5 năm, FP7 là một chương trình nghiên
cứu lớn nhất của châu Âu từ trước đến nay với tổng kinh phí đầu tư gần
54 tỷ euro và thời gian kéo dài đến 7 năm (2007-2013). Sự thay đổi này
phản ánh sự ưu tiên cho nghiên cứu ngày càng cao hơn trong chính sách
của EU. Nhân tố lõi của FP7 là chương trình hợp tác cụ thể với ngân
sách khoảng 32,4 tỷ Euro. Ngân sách này sẽ thúc đẩy sự cộng tác của EU
và nghiên cứu quốc tế thông qua các chương trình đồng tài trợ của EC
trong những lĩnh vực ưu tiên như: Y tế, nông nghiệp, công nghệ sinh
học, thông tin và truyền thông, công nghệ nano, nguyên liệu và các công
nghệ sản xuất mới, năng lượng, môi trường (bao gồm cả thay đổi khí
hậu), giao thông (bao gồm cả công nghiệp hàng không), khoa học xã hội
và nhân văn, vũ trụ và an ninh.
Trong
các FP, Việt Nam là nước thụ hưởng quan trọng thứ 3 ở châu Á với 42 dự
án đa phương, có tổng giá trị 26 triệu euro. Trong FP6 đã có 50 nhà
khoa học Việt Nam tham gia, làm việc với 141 đối tác đến từ 18 quốc gia
thành viên EU và số kinh phí mà cộng đồng KH&CN Việt Nam thụ hưởng
là khoảng 3 triệu USD.
Trong FP6, Việt Nam đã tham gia 20 dự án trên tổng số 168 dự án đề xuất, chiếm 11,9%. Đây chỉ là mức trung bình của Việt Nam
trong FP6. Trong FP7, số lượng các dự án do Việt Nam đề xuất thành công
chiếm 31%, cao hơn hẳn các nước ASEAN khác như: Malaysia 11%, Thái Lan
20%, Philippin 24%. Điều này thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ
Việt Nam trong việc phát triển KH&CN, đồng thời minh chứng cho sự
sẵn sàng tuyệt đối của Việt Nam tiếp tục tham gia vào chuỗi giá trị
kinh tế gia tăng.
FP7 sẽ là một cơ hội mới cho Việt Nam
để đóng góp những nghiên cứu của mình và hưởng lợi ích từ tri thức châu
Âu và các đối tác trên toàn thế giới. Nó có thể cung cấp cho Chính phủ
Việt Nam
những công cụ để có thể trưởng thành nhanh hơn và cung cấp những dịch
vụ xã hội mới cao hơn. Ví dụ như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giao
thông, qua đó có được những lợi ích song phương từ các đối tác. Thuận
lợi ở đây có thể là sự hỗ trợ tích cực từ phía các tổ chức, thể chế,
mạng lưới viện Pasteur toàn cầu, mối quan hệ thân cận giữa các nhà khoa
học đã từng làm việc với nhau trong các nghiên cứu cụ thể và kinh
nghiệm thực tiễn thực thi các FP. Theo ông Sean Doyle, Việt Nam có thể
thành công trong việc nghiên cứu ở các lĩnh vực như: Y tế, môi trường
và năng lượng. Những lĩnh vực này phản ánh rõ ràng nhu cầu cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Hơn nữa, những lĩnh vực này đồng bộ với chiến lược của EC đối với Việt Nam. Trong lĩnh vực y tế, Việt Nam
nên tập trung vào xác định các chính sách để cung cấp dịch vụ y tế cho
tầng lớp có thu nhập thấp, xây dựng cơ sở hạ tầng cho phòng trừ dịch
bệnh. Về môi trường, quản lý chất thải và thay đổi khí hậu liên quan
đến khí CO2 phải là trọng tâm. Cuối cùng, Việt Nam
cần phải đáp ứng nhu cầu về năng lượng như một đòi hỏi tất yếu của phát
triển kinh tế và phải giảm thiểu tối đa tác hại tới môi trường, đặc
biệt thông qua việc sản xuất và tiêu thụ sạch hơn, sử dụng năng lượng
tái chế.
Ông Sean Doyle cũng khẳng định, châu Âu sẽ luôn sát cánh cùng Việt Nam thông qua đối thoại chính sách, trợ giúp phát triển và hợp tác về KH&CN.