|
Ảnh
VGP/Nhật Bắc
|
Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý
kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các Bộ,
ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên
Cổng Thông tin điện tử Chính phủ góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận
trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Cuộc đối thoại được truyền hình trực
tuyến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, được truyền hình trực tiếp trên
kênh InvestTV (VCTV15) - Đài truyền hình Việt Nam; trên kênh VTC1 - Đài truyền
hình kỹ thuật số VTC; được phát thanh trực tiếp trên hệ thời sự VOV1- Đài tiếng
nói Việt Nam và thông tin rộng rãi trên nhiều phương tiện truyền thông khác để
cung cấp thông tin tới các tầng lớp nhân dân trong nước, bà con Việt kiều, các
tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Nguyễn Thanh Thảo, Trần Quốc Bình,
phố Hoàng Văn Thái, Thanh Xuân; Lê Thanh, Phố Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội hỏi: Thưa Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ
vừa phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 -
2020, chiến lược được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong hiệu quả
của tổ chức, hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ, xin Bộ trưởng có thể
cho biết những điểm mới, điểm khác biệt cơ bản trong bản chiến lược này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Ngày 11/4/2012, Thủ tướng đã ban
hành Quyết định 418 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KHCN)
giai đoạn 2011 – 2020. Một số nội dung mới so với trước là những mục tiêu cụ
thể của chiến lược và một số giải pháp thúc đẩy KHCN Việt Nam. Cụ thể bao gồm,
đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và
tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng
công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt trên 20%/năm
giai đoạn 2016 - 2020, Giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ
tăng trung bình 15 - 17%/năm. Trình độ phát triển KHCN, phấn đấu là một trong
những nước có thứ hạng trong khu vực ASEAN.
Số lượng công bố quốc tế từ các đề
tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước tăng trung bình 15 - 20%/năm, tốc độ
đăng ký sáng chế giải pháp hữu ích tăng 1,5-2 lần so với 5 năm trước. Phấn đấu
tăng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt trên 2% GDP vào năm 2020.
Bảo đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới
2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm. Tăng cường tiềm lực KHCN, xây dựng 60
cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao… Có hệ thống
5.000 doanh nghiệp KHCN để đóng góp quan trọng cho tăng trưởng.
Đội ngũ KHCN đủ trình độ với tỷ lệ
11-12người/1 vạn dân vào 2020, hệ thống khoảng gần 2.000 tổ chức KHCN của nhà
nước và các thành phần kinh tế khác. Chúng tôi hy vọng đến 2020, sẽ đạt trình
độ nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Giải pháp thì có nhiều, nhưng quan
trọng, mang tính đột phá là tăng cường tập trung đầu tư, nâng cao tiềm lực KHCN
đất nước. Bên cạnh duy trì 2% tổng chi ngân sách, cần có biện pháp huy động sự
đóng góp của xã hội, doanh nghiệp. Để đạt 2% tổng GDP quốc gia dành cho KHCN
thì chắc chắn các doanh nghiệp phải đóng góp từ 3-4 lần mức chi của ngân sách Nhà
nước, hay nói cách khác mức xã hội hoá đạt từ 3-4 lần sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước.
Để làm được, phải có nhiều giải pháp
đồng bộ trong đó có chính sách khuyến khích, chế tài… để các doanh nghiệp, tổ
chức dành một phần lợi nhuận cho quỹ phát triển KHCN của chính doanh nghiệp,
hoặc của địa phương thì chúng ta mới có đủ nguồn lực để phát triển KHCN của đất
nước.
BTV: Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng
ngân sách Nhà nước đầu tư cho KHCN chưa được sử dụng đúng cách, đặc biệt là đầu
tư cho phát triển KHCN địa phương. Là người đứng đầu Bộ KHCN, quan điểm của ông
về ý kiến này như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Cảm ơn độc giả đã đặt câu hỏi rất
chính xác, hiện nay mức chi cho KHCN chiếm 2% tổng chi ngân sách. Việc sử dụng
nguồn kinh phí này chưa đạt hiệu quả cao, trong đó chủ yếu là do cơ chế phân bổ
ngân sách, hàng năm chúng ta dành khoảng 42-43% kinh phí này cho đầu tư phát
triển và bố trí cho các bộ, ngành, địa phương tuy nhiên do quy định của luật ngân
sách, quy định của luật tổ chức HĐND, UBND phân cấp thẩm quyền cho địa phương
nên nhiều địa phương và một số bộ, ngành sử dụng không đúng mục đích cho đầu tư
phát triển KHCN.
Nhiều địa phương, bộ, ngành sử dụng
kinh phí này xây trụ sở, làm đường xá, đắp đê thậm chí làm những việc không
liên quan đến KHCN. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư của Nhà nước dành cho phát
triển tiềm lực KHCN của các bộ, ngành, địa phương. Phần kinh phí còn lại là
kinh phí sự nghiệp khoa học thì rất nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức sử
dụng không hiệu quả thông qua việc sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học không
dành cho khoa học như xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị quá
nhiều, đầu tư cho những nhiệm vụ không xứng tầm và không đáp ứng được nhu cầu
phát triển của bộ, ngành, địa phương; sản phẩm nghiên cứu ít được áp dụng trong
thực tiễn.
Trong thời gian tới phải điều chỉnh
mục tiêu này, làm sao Bộ KHCN có đủ thẩm quyền để đề xuất việc phân bổ kinh
phí, kể cả đầu tư phát triển vào sự nghiệp KHCN và trong Chiến lược phát triển
KHCN đến 2020 Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo việc phân bổ kinh phí phải theo
tiêu chí và hiệu quả hoạt động KHCN của các bộ, ngành địa phương, nơi nào làm
tốt cần được đầu tư nhiều hơn, nơi nào làm không tốt thì sẽ bị cắt giảm nguồn
đầu tư từ ngân sách.
|
Ảnh
VGP/Nhật Bắc
|
BTV: Thưa ông, ngoài việc cắt giảm thì có
chế tài nào dành cho các đơn vị sự nghiệp nào được phân bổ ngân sách dành cho
phát triển KHCN nhưng sử dụng không đúng mục đích không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Hiện nay theo quy định của pháp
luật các địa phương được phân cấp nên kinh phí của Trung ương bố trí các địa
phương toàn quyền phân bổ và sử dụng theo Nghị quyết của HĐND và UBND. Nếu có
chế tài chúng tôi đã đề xuất trong Đề án đổi mới cơ bản toàn diện về KHCN đã
trình Thủ tướng và đang đợi phê duyệt, đề xuất phải sửa luật có liên quan như
Luật Ngân sách, Luật UBND, HĐND. Trên cơ sở đó, Bộ có vai trò giám sát, kiểm
tra việc thực hiện sử dụng ngân sách KHCN ở địa phương, nơi nào sử dụng không
hiệu quả thì Bộ có quyền can thiệp để năm sau Chính phủ sẽ giảm bớt thậm chí
cắt giảm nguồn ngân sách cho địa phương đó.
Trần Xuân Trình - P7 - Q3 - TP. Hồ
Chí Minh: Chất lượng
nghiên cứu khoa học đang là vấn đề đáng phải suy ngẫm? Giải pháp nào của Bộ
KHCN để đổi mới công tác xét chọn, đánh giá, nghiệm thu các đề tài NCKH góp phần
nâng cao chất lượng nghiên cứu?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề này tôi đã có một số lần
trao đổi với báo giới. Nhiều người nói hiệu quả đề tài không cao, nhiều đề tài
xếp ngăn kéo. Tôi từng nói, các đề tài khoa học có những loại chắc chắn phải
xếp ngăn kéo một thời gian như nghiên cứu cơ bản, phải sau 1 thời gian, chúng
ta mới có thể đưa vào các chuỗi nghiên cứu tiếp tục. Trong thực tế chúng tôi
cũng thấy, quả thực chất lượng nghiên cứu còn có vấn đề, biểu hiện công bố quốc
tế của Việt Nam, đăng ký sáng chế của chúng ta còn thấp so với thế giới.
Một trong những nguyên nhân là quy
trình thủ tục để tuyển chọn, xét chọn nghiệm thu đánh giá các đề tài, dự án
nghiên cứu.
Do vậy trong đề án đổi mới cơ bản
toàn diện và đồng bộ về tổ chức cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KHCN, chúng
tôi đã kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đổi mới cơ chế xác định và đánh giá
các đề tài, dự án, chúng ta thường gọi là nhiệm vụ KHCN.
Trước đây xác định đề tài làm theo
phương thức đề xuất từ cơ sở. Nhưng những đề xuất đó nhiều khi chưa bám sát
thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội và không được doanh nghiệp đón nhận.
Chúng tôi đang chuyển dần sang cơ
chế đặt hàng. Nghĩa là, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương chủ động đặt hàng
nhà khoa học. Khi đặt hàng thì theo nguyên tắc, ai đặt hàng người đó hỗ trợ
kinh phí, chịu trách nhiệm tiếp nhận kết quả và đưa kết quả vào sản xuất kinh
doanh. Cơ chế đã bắt đầu áp dụng từ 2011, chúng tôi sẽ tiếp tục cơ chế này.
Thứ 2, tiếp tục nâng cao chất lượng
hội đồng đánh giá nghiệm thu cũng như hội đồng xác định nhiệm vụ, hội đồng
tuyển chọn nhiệm vụ KHCN bằng việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên gia khoa học
với tiêu chí cao,. Để những ai đáp ứng đủ tiêu chí mới được mời tham gia vào
hội đồng. Trên cơ sở đó thì chúng tôi cho rằng, các kết luận của hội đồng sẽ có
chất lượng cao hơn.
Chúng tôi hy vọng cùng các đổi mới
khác về cơ chế tài chính, 5 năm tới hiệu quả của các đề tài, dự án sẽ được nâng
cao rõ rệt.
BTV: Nhiều bạn đọc thắc mắc, vấn đề
tài chính trong khoa học đặc biệt là khâu thanh quyết toán hiện có nhiều rắc
rối. Ông có giải pháp gì không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Bạn đọc đặt câu hỏi đúng bức xúc
của chúng tôi và giới khoa học nói chung. Nhiều người phàn nàn về việc thanh
quyết toán quá rườm rà, thậm chí có người nói, thời gian dành cho thủ tục thanh
quyết toán còn nhiều hơn nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã nhận rõ
những vấn đề trong thủ tục, do vậy trong đề án đổi mới chúng tôi đang trình Thủ
tướng Chính phủ, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp.
Thứ nhất, kiến nghị việc cấp phép
kinh phí cho nghiên cứu chuyển dần sang cơ chế quỹ. Hiện đã có quỹ phát triển
KHCN quốc gia và sắp tới đưa vào hoạt động quỹ đổi mới CN quốc gia. Nếu cấp
phép kinh phí từ quỹ, sẽ không bị cản trở bởi tư duy xây dựng kế hoạch và làm
dự toán kinh phí là trước 1,5 năm như hiện nay.
Thứ 2, Thủ tục của quỹ đáp ứng nhu
cầu tức thời khi các nhà khoa học được đặt hàng hoặc là đề xuất những nhiệm vụ
cần thiết.
Thứ 3, quỹ không bắt buộc quyết toán
theo năm tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học chỉ quyết toán
1 lần khi kết thúc dự án.
Vấn đề thứ 2, chúng tôi cũng đề nghị
phối hợp với Bộ Tài chính bổ sung một số nội dung chi cần thiết để giúp nhà
khoa học trong quá trình thực hiện đề tài dự án như thuê chuyên gia trong và
ngoài nước, kinh phí hỗ trợ đăng ký sở hữu trí tuệ, kinh phí dự phòng bù cho
tốc độ trược giá. Chúng tôi cũng đề nghị đơn giản hóa thủ tục thanh quyết toán,
đưa vào hoạt động cơ chế khoán chi trong hoạt động KHCN và khoán chi đến sản
phẩm cuối cùng. Những chi phí dành cho nhân lực trong quá trình nghiên cứu sẽ
khoán cho nhà khoa học chủ trì đề tài, dự án.
Chúng tôi cũng đề nghị sửa định mức
của Thông tư 44 về định mức chi trong đề tài, dự án, nâng cao định mức cho phù
hợp với hiện nay.
Chúng tôi cũng hy vọng với tất cả
những đề xuất đó khi được Thủ tướng phê chuẩn, giới khoa học sẽ bớt lo phiền.
BTV: Trong các cơ quan nhà nước, có
lúc nào ông nghĩ rằng một số đề tài sẽ vĩnh viễn không được sử dụng mà người ta
chỉ lập ra đề tài để rót ngân sách về?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tất nhiên trong bất kỳ lĩnh vực nào
người ta có thể trục lợi từ nhà nước, trong khoa học cũng không tránh khỏi. Tuy
nhiên với hệ thống quản lý, với trách nhiệm cao trong tổ chức thực hiện và giám
sát chúng ta có thể hạn chế tối đa những hiện tượng này.
Chúng tôi đã được Chính phủ bổ sung
chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng ngân sách khoa học ở
các Bộ, ngành, địa phương.
Trong 3 năm qua, kể từ khi có Nghị
định 28 của Chính phủ, công tác này đã được thực hiện rất tốt, tỷ lệ các đề tài
không hiệu quả hoặc không thực hiện được ở các Bộ, ngành, địa phương giảm đi
rất nhiều; tỷ lệ sử dụng kinh phí đúng mục đích ở các địa phương tăng lên đáng
kể. Trước đây tỷ lệ đó thường dao động từ 20-30% thì trong 3 năm qua theo dõi
của Sở KHCN địa phương trong cả 63 tỉnh, thành phố thì tỷ lệ này đạt bình quân
trên 60%, đặc biệt có nhiều địa phương nghèo khó tỷ lệ này đạt rất cao trên
90%, có nơi đạt 100%. Điều này chứng tỏ nếu chúng ta giám sát tốt và có những
chế tài xử lý nghiêm minh thì có thể cải thiện được tình hình.
|
Ảnh
VGP/Nhật Bắc
|
Hong Le Phuc
[hong!phuch3t@...com.vn]: Theo
lộ trình, thì các tổ chức khoa học công lập phải chuyển đổi “tự chủ, tự chịu
trách nhiệm”. Xin Bộ trưởng cho biết thời gian nào thì sẽ thực hiện xong lộ
trình này.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Vấn đề là chuyển các tổ chức KHCN
công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là vấn đề đã
đặt ra từ 16 năm nay từ Nghị quyết TW2 khoá VIII và sau đó là Nghị quyết TW 6
khoá IX. Nhưng chỉ thực sự bắt đầu khi Chính phủ ban hành Nghị định 115 năm
2005 và Nghị định 80 năm 2007. Và vừa rồi có điều chỉnh bổ sung bởi Nghị định
96 năm 2010.
Chính vì đây là quá trình khó khăn,
có thể nói là thách thức rất lớn do các tổ chức KHCN đã quen hoạt động trong cơ
chế bao cấp nhiều năm, do vậy chúng tôi đã trình Chính phủ cho phép lùi thời
hạn chuyển đổi tới hết 2013.
Hiện Bộ KHCN đang cùng các bộ ngành
xây dựng cơ chế để các tổ chức CN hoàn toàn có thể chuyển đổi sang cơ chế tự
chủ vào 2014.
Cần phải nói rõ, nhiều người còn
hiểu sai cơ chế tự chủ, cho rằng, khi chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, các tổ chức KHCN công lập không còn được Nhà nước hỗ trợ nữa. Xin nói
rằng Nhà nước chỉ thay đổi phương thức cấp kinh phí hoạt động thường xuyên,
trước đây cấp theo đầu biên chế của 1 tổ chức, khi chuyển sang cơ chế tự chủ
thì Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên thông qua nhiệm vụ mà Nhà nước
giao cho tổ chức KHCN .
Có thể là nhiệm vụ thường xuyên do
chức năng của tổ chức, có thể là đề tài dự án KHCN được giao nghiên cứu.
Các đồng chí đều biết, từ trước tới
nay, trong các đề tài, dự án khoa học không có phần dự toán kinh phí hoạt động
thường xuyên, tức là cán bộ khoa học không được hưởng lương và chi phí khác từ
đề tài dự án do Nhà nước đã trả lương và chi phí hoạt động thường xuyên qua số
lượng biên chế.
Như vậy tạo ra sự bất bình đẳng giữa
các tổ chức KHCN công lập và ngoài công lập. Các tổ chức ngoài công lập khi làm
dự toán để đấu thầu tuyển chọn đề tài thì phải làm dự toán cả tiền lương và chi
bộ máy. Trong khi tổ chức công lập thì nhà nước đã bảo đảm và không phải dự
toán. Như vậy, vô hình chung các tổ chức ngoài công lập rất khó cạnh tranh về
mặt đề tài dự án đối với các tổ chức công lập.
Hơn nữa, việc cấp kinh phí thường
xuyên theo kiểu bao cấp tạo ra sức ỳ lớn, sự ỷ lại của các tổ chức công lập,
bởi dù hoạt động không hiệu quả, nhà nước vẫn trả lương. Bây giờ khi chuyển
sang cơ chế cấp phép kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ, chắc chắn,
tổ chức nào hoạt động tốt sẽ có thu nhập nhiều hơn, làm nhiều đề tài, dự án
được hưởng nhiều lương hơn, ai không làm việc thì chắc chắn không được hưởng. Ở
đây cũng nói rõ, Nhà nước cũng đã phân loại có 4 nhóm tổ chức KHCN để có 4
phương thức hỗ trợ khác nhau.
Nhóm đã từng tự chủ, đã tự bảo đảm
kinh phí hoạt động thường xuyên từ nhiều năm nay, thì tiếp tục được Nhà nước
được giao quyền tự chủ về tổ chức biên chế và xác định nhiệm vụ. Đồng thời Nhà
nước cho thêm chức năng kinh doanh như doanh nghiệp và hưởng mọi ưu đãi như
doanh nghiệp.
Thứ 2 là nhóm hiện nay mới chỉ đảm
bảo được một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, nhà nước cho phép tiếp tục
cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo phương thức cũ tới hết 2013. Từ 2014,
Nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ nhưng theo phương thức mới.
Nhóm 3 là tổ chức KHCN làm nghiên
cứu cơ bản, chiến lược chính sách và làm dịch vụ phục vụ quản lý nhà nước. Đây
là nhóm mà sản phẩm của họ chỉ có nhà nước mới mua, nhà nước bao tiêu sản phẩm
và hỗ trợ toàn diện để tổ chức đó hoạt động thông qua cấp kinh phí hoạt động
thường xuyên theo phương thức khoán. Đương nhiên tổ chức này khi làm đề tài, dự
án vẫn tiếp tục nhận được kinh phí thông qua chi thường xuyên của các đề tài,
dự án.
Nói khác đi, các nhà khoa học vừa
được hưởng lương cơ bản từ ngân sách nhà nước cấp theo phương thức khoán, vừa
được hưởng lương từ dự án.
Nhóm 4 là các tổ chức khoa học công
nghệ được thành lập sau ngày Nghị định 96 có hiệu lực. NN sẽ bao cấp 4 năm để
họ có đủ thời gian ổn định hoạt động. Khi đã ổn định NN mới cấp kinh phí hoạt
động theo phương thức mới.
Chúng tôi hy vọng các nhà khoa học,
tổ chức KHCN hiểu rõ bản chất Nghị định 115, hưởng ứng và cùng với chúng tôi
hoàn thành việc chuyển đổi tổ chức của mình theo tinh thần của Chính phủ tại
Nghị định 96 cũng như 115 và 80.
phan duc dung
[phanducdung86@...com]:
Nhà nước có khuyến khích, hỗ trợ tư nhân trong nghiên cứu KHCN không? (Vì
dù là tư hay là công mà sản phẩm nghiên cứu hiệu quả thì đều vì đất nước
mình cả).
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Bạn hỏi một câu rất thú vị, rất
nhiều người trong bộ máy của chúng ta vẫn hiểu rằng ngân sách Nhà nước chỉ chi
cho các cơ quan của Nhà nước. Nhưng trong hoạt động KHCN nhiều năm nay chúng
tôi kiên trì thuyết phục các bộ, ngành rằng NSNN là do người dân đóng thuế,
người dân thì thuộc mọi thành phần kinh tế, không chỉ của Nhà nước vì thế Nhà
nước có trách nhiệm hỗ trợ trở lại cho mọi thành phần kinh tế khi họ có ý tưởng
sáng tạo, có nghiên cứu đem lại lợi ích cho xã hội.
Thực tế trong nhiều năm qua, Bộ KHCN
đã thực hiện phương châm này, chúng tôi không chỉ hỗ trợ cho khu vực Nhà nước
mà còn cho các tổ chức KHCN ngoài Nhà nước, thậm chí các tổ chức KHCN của tư
nhân cũng có quyền bình đẳng trong việc tuyển chọn các nhiệm vụ KHCN ở cấp Nhà
nước và các cấp khác. Đồng thời hỗ trợ cho DN tư nhân và DN của các thành phần
kinh tế khác trong quá trình đổi mới KHCN.
Ngay từ năm 1999, Bộ đã trình Chính
phủ ban hành Nghị định 119 hỗ trợ đổi mới CN. Nhiều DN đã phát triển và trở
thành DN lớn nhờ những dự án đổi mới KHCN có sự hỗ trợ của nhà nước.
Trong những năm gần đây quá trình
này đã được đẩy mạnh hơn. Điển hình là Xí nghiệp Cơ khí Quang Trung-Ninh Bình
là một DN tư nhân, nhưng nhờ một số dự án, đề tài mà Bộ KHCN hỗ trợ theo NĐ 119
cũng như các chương trình KHCN trọng điểm cấp Nhà nước mà Xí nghiệp cơ khí
Quang Trung -Ninh Bình trở thành một DN lớn đã có những sản phẩm lớn đóng góp
to lớn cho sự phát triển của kinh tế xã hội ở các nhà máy đóng tàu, nhà máy
Thủy điện Sơn La, nhà máy thủy điện Sê San, sắp tới là nhà máy Thủy điện Lai
Châu.
Bản thân Giám đốc DN trở thành Anh
hùng Lao động và được giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN, Xí nghiệp là tập thể Anh
hùng Lao động.
Cho đến thời điểm hiện nay chúng tôi
tiếp tục hỗ trợ rất nhiều DN khác cũng như các thành phần kinh tế và cá nhân
nhà khoa học. Chúng ta thường nghe nói nhiều người nông dân, những nhà khoa học
chân đất có sáng kiến cải tiến, Bộ KHCN trong nhiều năm qua đặc biệt quan tâm
vấn đề này.
Chúng tôi giao cho Sở KHCN thường
xuyên quan tâm hỗ trợ cho người nông dân có sáng kiến, khi tổ chức Chợ công
nghệ và thiết bị (Tech Mart) chúng tôi đều mời những người nông dân có sáng
kiến tham dự hội chợ giới thiệu sản phẩm của mình và sau đó các Sở KHCN có thể
giúp họ hoàn thiện sản phẩm.
Nhiều người đã thành đạt khi thành
lập DN để kinh doanh chính sản phẩm của mình. Chúng tôi cho rằng quan điểm của
chúng tôi là đúng hướng. Vừa rồi khi Thủ tướng Chính phủ thăm Xí nghiệp Cơ khí
Quang Trung-Ninh Bình đã chỉ đạo và chúng tôi thấy rằng chỉ đạo của Thủ tướng
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với vấn đề phát triển KHCN.
|
Ảnh
VGP/Nhật Bắc
|
The Ha Nguyet [thehsk196lac@...com]
: Là một nhà khoa
học tôi thấy kết luận ban đầu về nguyên nhân cháy, nổ xe như liên Bộ mới đưa ra
là không thuyết phục vì không chỉ ra được nguyên nhân làm số vụ cháy nổ xe tăng
đột biến gần đây? Tôi thấy các kết quả của các nhóm nghiên cứu này chỉ phản ánh
các sự cố hy hữu mà bao năm qua vẫn tồn tại, trong khi đó chỉ trong vòng gần 2
năm rưỡi gần đây đã có 349 vụ cháy, nổ xe máy, ô tô xảy ra. Hiện nay chúng ta
có dùng xăng A83 nữa đâu mà đưa vào nghiên cứu. Xin bộ trưởng cho biết ý kiến
của mình về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề cháy nổ xe cơ giới- vấn
đề gây bức xúc xã hội trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo
liên Bộ Công an, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ và Công Thương phối
hợp xác minh nguyên nhân và đề xuất giải pháp hạn chế cháy nổ xe cơ giới.
Tất nhiên đây mới là kết quả bước
đầu. Vừa rồi, Bộ Công an đã chủ trì cùng các Bộ tổ chức họp báo công bố bước
đầu các kết quả điều tra về nguyên nhân gây cháy nổ. Có thể kết luận này chưa
làm thoả mãn quan điểm của nhiều độc giả. Tuy nhiên, có thể nói, việc cháy nổ
xe cơ giới không phải hiện tượng cá biệt của Việt Nam, tất cả các nước trên thế
giới đều có hiện tượng này, chỉ khác nhau về mức độ. Có những nước tỷ lệ cháy
nổ cao hơn chúng ta, nhưng cũng có nước thấp hơn.
Vừa rồi, tỷ lệ này ở nước ta tăng
đột biến trong 2 năm 2010 và 2011. Cho nên, xã hội cũng rất bức xúc và yêu cầu
Chính phủ phải làm thật rõ để có giải pháp ngăn chặn. Tôi cho rằng, xăng dầu
được xã hội đặt vào vòng ngắm đầu tiên. Tuy nhiên, xăng dầu chỉ là chất cháy,
để nó cháy được phải có tác động của nguồn nhiệt, cụ thể là phải có tia lửa. Vì
vậy, khi xảy ra các vụ cháy nổ ô tô, xe máy, cơ quan công an cùng các bộ ngành
liên quan đã tiến hành điều tra xác minh.
Chúng tôi đã yêu cầu Tổng cục Đo
lường Chất lượng là cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng xăng dầu vào cuộc,
lấy mẫu từ các xe bị cháy còn sót lại, lấy mẫu từ các cây xăng mà các xe này đã
mua xăng theo khai báo của chủ xe để xét nghiệm. Tất cả các mẫu xét nghiệm này
đều không vi phạm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng dầu. Vì thế, có thể nói,
kết luận bước đầu của Bộ Công an đánh giá nguyên nhân cháy nổ khoảng trên 30%
do chập điện, trên 15% là do sự cố kỹ thuật khác, còn lại nhiều nguyên nhân như
vô tình hữu ý của người sử dụng xe hay những nguyên nhân do tai nạn…
Những lý do này có thể chưa làm thoả
mãn độc giả. Hôm qua tôi có trao đổi với 1 nhà khoa học có danh tiếng và nhà
khoa học này có mấy ý kiến mà chúng ta cần phải nghiên cứu. Tôi cũng đề nghị
các cơ quan điều tra cần phải đi theo hướng này. Đó là các vụ cháy nổ xảy ra
thì xăng dầu tại thời điểm đó không phải là nguyên nhân trực tiếp nhưng rất có
thể chất lượng xăng dầu của thời gian trước đó là nguyên nhân gián tiếp gây ra
những sự cố này. Ví dụ trước đó nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí hàng năm, nếu
như xe máy có sử dụng xăng dầu pha chất phụ gia mà gây hại như axeton có thể ăn
mòn chi tiết động cơ, làm thủng bình chứa xăng, thủng đường ống dẫn bằng nhựa,
làm thoái hoá gioăng đệm của động cơ dẫn tới rò rỉ xăng ở mức độ nghiêm trọng và
trong quá trình vận chuyển trên đường, với ma sát của các bộ phận cơ khí với
tia lửa của chập điện, rất dễ xảy ra cháy nổ. Tuy nhiên, khó khăn là chúng ta
không thể điều tra, xét nghiệm lại các mẫu xăng dầu của giai đoạn trước vì đã
được tiêu thụ hết.
Vì vậy chúng tôi cho rằng, song song
với việc tiếp tục điều tra nguyên nhân gây cháy nổ, các bộ, ngành phải kiểm
soát thật chặt chẽ chất lượng xăng dầu kể từ thời điểm này cho tới giai đoạn
tiếp theo để tránh xảy ra cháy nổ trong giai đoạn tới.
Về chất lượng xăng dầu, chúng tôi
thời gian qua đã tăng cường kiểm soát. Hàng năm các sở KHCN, các chi cục tiêu
chuẩn đo lường và chất lượng cùng các trung tâm kỹ thuật về tiêu chuẩn và chất
lượng của chúng tôi thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử phạt và công bố công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng những cây xăng, đại lý vi phạm về đo
lường chất lượng xăng dầu.
Thường thì 3-4 năm, chúng tôi tổ
chức thanh tra diện rộng toàn quốc về xăng dầu, thanh tra Bộ phối hợp với thanh
tra của các sở cùng với cơ quan quản lý thị trường, công an kinh tế thanh tra
diện rộng và mỗi đợt thanh tra diện rộng đó, chúng tôi kiểm tra toàn bộ mạng
lưới phân phối và bán xăng dầu đồng thời xử phạt hang nghìn cây xăng có vi phạm
về đo lường và chất lượng xăng dầu. Tổng số tiền phạt trong những đợt này
thường dao động từ 3-5 tỷ đồng.
Tất nhiên mức phạt đó chưa đủ mạnh
để răn đe. Gần đây với luật xử phạt vi phạm hành chính mới mức phạt đã tăng
lên, chúng tôi hy vọng là đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm về chất
lượng xăng dầu.
Riêng đối với xăng A83, tôi xin đính
chính, hiện nay chúng ta vẫn còn có 1 số phương tiện giao thông và một số lĩnh
vực vẫn sử dụng xăng A83. Đặc biệt là trang thiết bị được sản xuất trong giai
đoạn trước của các nước XHCN và Liên Xô cũ. Tỷ lệ không nhiều nhưng vẫn còn sản
xuất và sử dụng A83. Các đối tượng vi phạm thường sử dụng xăng A83 với giá
thành thấp pha trộn với các xăng khác hoặc bán với giá xăng A92, 95 để kiếm
lợi. Khi phát hiện, thanh tra KHCN cùng các cơ quan chức năng xử phạt rất
nghiêm minh. Chúng tôi đã trình Chính phủ cho phép chấm dứt sử dụng xăng A83
trong thời gian tới.
Nguyen thu hang [hangvd2gmail.com]: Tình trạng người tiêu dùng bị các
cây xăng "móc túi" cả về lượng và chất đã tồn tại nhiều năm nay nhưng
việc xử lý còn lúng túng, chế tài xử phạt còn chưa nghiêm, vậy trách nhiệm của
Bộ KHCN đến đâu? Bộ trưởng có biện pháp gì giải quyết dứt điểm tình trạng này
không? Liệu có thể công bố công khai trên báo chí các cây xăng gian lận đã bị
xử phạt để người dân “tẩy chay” không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Việc xử lý các vi phạm về chất lượng
xăng dầu phải theo quy định của pháp luật. Bộ đã xây dựng và trình Quốc hội
thông qua Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, Luật Đo lường, trình Chính phủ ban hành các Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực này, các mức xử phạt của các Nghị định này phải
tuân thủ mức xử phạt chung của Nghị định xử phạt vi phạm hành chính.
Trước đây mức xử phạt không đủ răn
đe với mức phạt rất thấp. Vừa rồi mức phạt được nâng lên tới 500 triệu đồng,
trong trường hợp đặc biệt còn có các chế tài khác kèm theo.
Trong thực tế, trong các đợt thanh
tra diện rộng về xăng dầu, chúng tôi ngoài xử phạt về hành chính đã kiến nghị
Bộ Công Thương rút giấy phép kinh doanh nhiều đại lý xăng dầu vi phạm, vi phạm
cả về đo lường (đong thiếu cho khách hàng), về chất lượng (cho thêm tạp chất
khác như nước, axêton, dầu hỏa, methanole… vào trong xăng dầu để kiếm lợi).
Đã có nhiều cây xăng bị thu hồi vĩnh
viễn nếu vi phạm nghiêm trọng. Tất nhiên có cây xăng chỉ bị thu hồi một thời
gian, điều này cũng nằm trong quy định của pháp luật nếu mức vi phạm không đủ
nghiêm trọng. Hoặc doanh nghiệp có thể bị giải thể sau đó thành lập doanh
nghiệp mới lại được quyền đăng ký kinh doanh thì cũng không thể loại trừ.
Tuy nhiên chúng tôi cũng thống nhất
rằng phải tăng cường kiểm soát chất lượng xăng dầu, nâng mức xử phạt đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính răn đe của pháp luật.
|
Ảnh VGP/Nhật Bắc
|
BTV: Như ông biết, sản phẩm của Việt
Nam làm ra rất khó cạnh tranh với các nước tiên tiến. Vậy thưa ông, những khó
khăn vừa qua đã bộc lộ quá trình đổi mới CN trong các doanh nghiệp còn rất
chậm, dẫn tới hạn chế sức cạnh tranh của sản phẩm tiêu thụ trong nội địa cũng
như xuất khẩu. Trong những năm tới, nhà nước cần làm gì để khuyến khích các
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích cực đầu tư áp dụng KHCN
vào sản xuất để cho ra đời các sản phẩm có chất lượng, theo kịp thị hiếu người
tiêu dùng.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Khi chúng ta gia nhập WTO, chất
lượng sản phẩm là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, tham gia sân chơi chung của
thế giới thì sản phẩm của chúng ta phải đủ sức cạnh tranh với thế giới. Nếu
không thì nền sản xuất của chúng ta sẽ bị “bóp chết”. Vì vậy nhà nước phải có
trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN để nâng cao chất lượng sản phẩm,
tính cạnh tranh của sản phẩm trong sân chơi chung của WTO.
Thực tế, trong quá trình đàm phán để
gia nhập WTO, Chính phủ đã có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Bởi chúng
tôi biết rất rõ, doanh nghiệp của Việt Nam hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ và
siêu nhỏ, tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp không đủ để tự đổi mới CN,
ngoài trừ một số tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước và một số doanh nghiệp đa sở
hữu khác. Chính vì thế như tôi đã nói, Nhà nước có Nghị định 119 hỗ trợ doanh
nghiệp đổi mới CN và trong hơn 10 năm qua, nhiều doanh nghiệp được hưởng lợi từ
chính sách này.
Nhà nước hỗ trợ tới 30% kinh phí của
dự án đổi mới CN của doanh nghiệp và 30% này được hỗ trợ cho toàn bộ hoạt động
liên quan tới KHCN như nghiên cứu áp dụng CN mới, đào tạo nguồn nhân lực về
KHCN, nhập công nghệ, mua bí quyết công nghệ…
Vừa qua chúng tôi đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành chương trình quốc gia về đổi mới CN và chắc chắn sự hỗ trợ
của nhà nước đối với doanh nghiệp của chúng ta còn cao hơn nữa. Chúng tôi cũng
trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập quỹ đổi mới CN quốc gia với vốn
điều lệ 1.000 tỷ đồng. Đây quả thực là nguồn kinh phí rất lớn từ ngân sách nhà
nước để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới CN. Chúng tôi cũng đã cùng với Bộ Tài chính
trình Quốc hội sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp
được trích tới 10% lợi nhuận trước thuế để phát triển KHCN của doanh nghiệp.
Hay nói cách khác, nếu doanh nghiệp chi kinh phí cho hoạt động KHCN thì được
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, hàng ngàn doanh
nghiệp của chúng ta đã thành lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp và dành 1
phần kinh phí thích đáng để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, ngay cả các tập
đoàn kinh tế lớn như Viettel thời gian qua đã dành 1 nguồn kinh phí rất lớn từ
doanh thu tái đầu tư cho phát triển KHCN, đổi mới CN, tạo sản phẩm mới có sức
cạnh tranh tốt. Chúng tôi tin rằng thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận với những nguồn hỗ trợ của ngân
sách nhà nước để có thể đổi mới CN, tạo ra nhiều sản phẩm mới có sức cạnh
tranh.
PHAM HUY NGUYEN
[huynghla.09@....com.vn]: Cơ
chế nào để các doanh nghiệp mặn mà với đầu tư nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản
xuất? Vì sao rất khó khăn trong triển khai Nghị định 115?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Câu hỏi của bạn nói về 2 vấn đề rất
khác nhau nhưng có một điểm chung, hiện nay gắn kết giữa nghiên cứu và sản xuất
còn yếu kém, nhiều nghiên cứu không được ứng dụng trong sản xuất, ngược lại
nhiều DN rất cần công nghệ lại phải mua của nước ngoài.
Chính vì thế chúng tôi đã xây dựng
chương trình phát triển thị trường CN và đã trình Thủ tướng, nếu được Thủ tướng
chấp thuận sẽ tạo ra sức bật mới cho thị trường CN, nối kết giữa nguồn cung CN
và nguồn cầu CN, nối kết giữa các nhà nghiên cứu với sản xuất kinh doanh.
Nghị định 115 có một nội dung quan
trọng là cho phép các tổ chức KHCN công lập có thể lựa chọn giữa việc họ là một
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước nhưng có sản xuất kinh doanh được hưởng ưu đãi
như DN với việc họ có thể chuyển đổi toàn bộ tổ chức của họ trở thành DN khoa
học sản xuất kinh doanh dựa trên nền kết quả nghiên cứu của chính họ với những
sản phẩm do họ sở hữu về tài sản trí tuệ.
Nhà nước cũng cho phép các nhà khoa
học được góp vốn vào DN bằng tài sản trí tuệ có thể chuyển nhượng quyền sở hữu
về tài sản trí tuệ cho DN.
Tuy nhiên đúng như độc giả nói việc
thực hiện Nghị định 115 theo xu hướng này vẫn còn rất khó khăn. Bởi lẽ chúng ta
còn thiếu những quy định cụ thể về giao quyền sở hữu tài sản trí tuệ cho tổ
chức KHCN và nhà khoa học.
Bởi chúng ta đều biết tài sản trí
tuệ được hình thành từ ngân sách Nhà nước thông qua các đề tài nghiên cứu do
Nhà nước tài trợ, đương nhiên quyền quyết định kết quả nghiên cứu đấy thuộc Nhà
nước.
Nếu Nhà nước không có quy định giao
quyền sở hữu ấy cho nhà khoa học hoặc tổ chức KHCN chủ trì các đề tài dự án thì
đương nhiên các nhà khoa học không thể đem tài sản trí tuệ, kết quả nghiên cứu
ấy để góp vốn vào DN hay chuyển nhượng cho DN để có được nguồn tái đầu tư cho
sức sản xuất, tái đầu tư cho nghiên cứu.
Vấn đề này chúng ta vẫn coi như là
tài sản Nhà nước, thứ hai là chưa có quy định là ai có đủ thẩm quyền để giao sở
hữu này, đây là tài sản Nhà nước, giao tài sản Nhà nước phải có cấp thẩm quyền
và có quy trình, thủ tục. Chính vì thế Bộ KHCN cùng với Bộ Tài chính ban hành
quy định cụ thể là ai có thể đủ thẩm quyền để giao kết quả nghiên cứu có nguồn
gốc từ ngân sách Nhà nước, khi được giao, nhà khoa học được quyền chuyển nhượng
góp vốn như thế nào và khi chuyển nhượng góp vốn thu được lợi nhuận thì nhà
khoa học phải có nghĩa vụ trở lại đối với Nhà nước tức là người đã bỏ vốn đầu
tư cho nghiên cứu như thế nào, đóng góp với tổ chức mà mình phục vụ mình làm
việc như thế nào và quyền lợi của chính họ được hưởng như thế nào để có động
lực tiếp tục nghiên cứu.
Vì vậy tôi cho rằng giữa Nghị định
115 với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN có mối quan hệ chung mà chúng ta
cần phải quan tâm đầy đủ vấn đề này.
BTV: Thưa Bộ trưởng, Bộ trưởng nghĩ
sao về tình trạng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp lớn
quốc doanh vẫn nhập dàn thiết bị máy móc các nước tiên tiến không dùng từ lâu.
Theo ông, tình trạng này trong vài năm tới sẽ xử lý thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Chúng ta đều biết để đổi mới CN,
các doanh nghiệp phải hoặc thông qua con đường nghiên cứu, tự nghiên cứu, ứng
dụng CN mới hoặc nhập khẩu CN hoặc nhập khẩu thiết bị chứa CN để tạo ra sản
phẩm mới.
Đúng như bạn vừa đề cập, chúng tôi
thấy nhiều doanh nghiệp hiện nay có xu hướng thích nhập công nghệ của nước
ngoài, thường là nhập thiết bị toàn bộ, và khi nhập thì thường nhập CN cũ và
lạc hậu. Điều này cũng xuất phát từ nguyên nhân, một là như tôi đã nói, thị
trường CN của chúng ta còn manh nha, doanh nghiệp rất thiếu thông tin về nguồn
CN trong nước, các nhà khoa học không nắm rõ nhu cầu CN của doanh anghiệp.
Thứ 2, tiềm lực doanh nghiệp còn non
yếu, chúng ta không đủ kinh phí, tiền để mua được thiết bị, công nghệ mới, hiện
đại.
Thứ 3, trình độ CN chung của nước ta
còn thấp. Theo đánh giá của chúng tôi qua khảo sát, nhiều doanh nghiệp nhỏ và
vừa hiện nay đang sử dụng CN lạc hậu của thập kỷ 60, 70. Rất ít doanh nghiệp sử
dụng CN của thập kỷ 80, 90, chỉ có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thì sử dụng CN của những thập kỷ gần đây.
Do vậy, nếu chúng ta nhập CN mới và
hiện đại, nhiều khi không phù hợp với trình độ CN chung của hệ thống. Thêm nữa,
các địa phương khi phê duyệt dự án đầu tư kể cả doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài, thường không tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, Sở KHCN, cho nên
không đánh giá được trình độ CN của dự án hay dây chuyền thiết bị được nhập
khẩu.
Chỉ đến khi những dây chuyền thiết
bị này hoạt động gây ô nhiễm môi trường, không hiệu quả lúc ấy người ta mới nhớ
đến các nhà khoa học. Nhưng các nhà khoa học lúc ấy chỉ có thể đề xuất biện
pháp để xử lý chứ không thể khắc phục những hậu quả của những thiết bị , CN này
đã gây ra.
Cho nên, chúng tôi cho rằng, các địa
phương, bộ, ngành khi nhập khẩu trang thiết bị có liên quan tới CN nên tham
khảo ý kiến của các nhà KH, các hội đồng KH và các cơ quan có trình độ đánh giá
trình độ CN của các dây chuyền này để khi đưa vào sản xuất, chúng ta không hối
tiếc vì đã nhập CN.
Hơn nữa nhà nước cũng nên hỗ trợ cho
các DN để họ có thể nhập khẩu được CN thay vì nhập khẩu thiết bị toàn bộ bởi
năng lực chế tạo thiết bị của chúng ta không phải là không có.
Chúng ta có đủ năng lực để chế tạo
thiết bị có trình độ CN cao, nhưng cái thiếu của chúng ta là CN và bí quyết CN
của những thiết bị này. Do vậy, thay vì chúng ta nhập khẩu cả 1 nhà máy hay dây
chuyền thiết bị lớn, hãy hỗ trợ doanh nghiệp mua CN, thuê chuyên gia và sau đó
đặt hàng các doanh nghiệp trong nước chế tạo những thiết bị đồng bộ hay dây
chuyền sản xuất có hiệu quả cao hơn và cũng không đến nỗi ở trình độ KHCN quá
thấp kém.
|
Ảnh VGP/Nhật Bắc
|
Dang Nguyen
[dangn_thanh65i@...com.vn]:
Trước sức ép về dân số và biến đổi
khí hậu thì nhiều nước trên thế giới đã cho phép trồng đại trà nhiều loại cây
biến đổi gene. Xin Bộ trưởng cho biết chủ trương này ở nước ta thế nào? Hiện
nay chúng ta đã có quy định về quản lý sản phẩm biến đổi gen chưa và cơ quan
nào chịu trách nhiệm giám sát?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đây là câu chuyện dài, hiện nay có
2 luồng ý kiến trái chiều kể cả trong giới khoa học và giới quản lý, nhiều
người ủng hộ, nhiều người phản đối. Các nước trên thế giới cũng như vậy, các
nước châu Âu phản đối các sản phẩm biến đổi gen, đặc biệt là thực phẩm dành cho
con người. Nhưng Hoa Kỳ và một số nước khác lại rất ủng hộ.
Việc sử dụng cây trồng biến đổi gen
ở Việt Nam (VN), theo tôi, phải hết sức thận trọng. Hiện nay một số tập đoàn đa
quốc gia đang mong muốn đưa vào VN những cây trồng biến đổi gen. Nhưng các cơ
quan quản lý của VN trong đó có Bộ KHCN, Bộ NNPTNT đề xuất với Chính phủ phải
có một giai đoạn khảo nghiệm hết sức thận trọng.
Hiện nay chỉ cho phép sử dụng một
cách hạn chế với 3 loại cây trồng là bông, đỗ tương, ngô. Đỗ tương và ngô trước
mắt chỉ phục vụ cho thức ăn chăn nuôi và dầu công nghiệp, chưa trực tiếp đưa
vào nguồn thực phẩm dành cho con người.
Thực tế những giống ngô biến đổi
gene mà chúng ta đang khảo nghiệm có năng suất rất cao và có khả năng chống
chịu dịch bệnh. Trong bối cảnh sức ép về gia tăng dân số, về công nghiệp hóa,
đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp càng ngày càng thu hẹp, dân số càng ngày
càng tăng thì việc nâng cao năng suất, chất lượng của cây trồng đặc biệt có ý
nghĩa.
Vì thế chúng ta phải áp dụng mọi
biện pháp để nâng cao năng suất cây trồng và nâng cao chất lượng lương thực
thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực và an ninh năng lượng.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng đề nghị Bộ
NNPTNT, các cơ quan khoa học phải có giai đoạn khảo nghiệm thật thận trọng, khi
nào có kết luận thật xác đáng là những sản phẩm cây trồng biến đổi gen không
gây hại với sức khỏe con người, không gây ô nhiễm môi trường thì chúng ta mới
có thể cho sử dụng đại trà.
Hiện nay chúng ta đang khảo nghiệm
với cây ngô, bông, một phần với cây đỗ tương. Chúng tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với
Bộ NNPTNT. Hiện nay, Chính phủ giao cho Bộ NNPTNT chủ trì phối hợp với nhiều
bộ, ngành liên quan trong đó có Bộ KHCN.
Các văn bản về quản lý cây trồng
biến đổi gen đã được các bộ, ngành ban hành, có các thông tư, nghị định và đặc
biệt là có Luật đa dạng sinh học trong đó có đề cập nhiều điều khoản liên quan
đến sinh vật biến đổi gene nói chung và cây trồng biến đổi gene nói riêng.
Chúng tôi hy vọng với sự thận trọng
đó của các cơ quan quản lý thì tác hại của cây trồng biến đổi gene đối với nền
kinh tế sẽ được hạn chế tối đa.
Thanh thuy ngan
[ngsthaunhthuy09@...com]:
Bộ trưởng đánh giá thế nào về vai trò của công nghệ sinh học (CNSH) ở nước
ta? So với các ngành nghiên cứu khoa học khác thì liệu ngành này có đang bị tụt
hậu hay không? Trong thời gian tới Bộ có giải pháp gì để công nghệ sinh học trở
thành một lĩnh vực công nghệ cao và một ngành kinh tế mũi nhọn thật sự?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Có lẽ tôi trả lời theo thứ tự ngược
lại một chút. Đảng và Nhà nước coi CN sinh học là lĩnh vực CN ưu tiên và là một
trong bốn CN cao mà các chương trình KHCN của chúng ta luôn quan tâm.
Bộ KHCN cũng đánh giá CNSH cùng CNTT
là 2 lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh, chúng ta phải đặc biệt quan tâm trong số
các lĩnh vực CN ưu tiên. Và trên thực tế nhiều năm qua, CNSH đã chứng tỏ là một
lĩnh vực mà Việt Nam chúng ta có thế mạnh, với việc đã đóng góp rất quan trọng
vào việc phát triển nông nghiệp và y tế của Việt Nam.
Có thể nói, trong bối cảnh dân số
gia tăng, diện tích canh tác bị thu hẹp, biến đổi khí hậu nặng nề, thiên tai
bão lụt thường xuyên, mà nông nghiệp Việt Nam phát triển với tốc độ đáng kinh
ngạc và được thế giới đánh giá rất cao.
Chúng ta đã trở thành quốc gia hàng
đầu về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, cà phê, hạt tiêu, điều. Có thể nói, không thể
thiếu vai trò của KHCN trong thành tựu phát triển nông nghiệp. Về giống lúa, đã
đảm bảo được tỷ lệ lớn giống của Việt Nam có năng suất cao, nhiều tính năng tốt
trong kháng chịu sâu bệnh, chịu hạn, thậm chí là chịu mặn khi biến đổi khí hậu
nước biển dâng. Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long được xếp hạng là viện hàng đầu
thế giới về giống lứa, Viện nghiên cứu quốc tế (IRRI) ở Philippines vẫn phải cử
chuyên gia sang học tập và cùng nghiên cứu với chúng ta.
Trong y tế chúng ta cũng có nhiều
nghiên cứu, đưa y tế nước ta có thứ hạng trong khu vực và thế giới. Chúng ta là
nước hàng đầu trong ASEAN về sản xuất vaccine, kể cả những vaccine đòi hỏi
trình độ cao như vaccine cúm gà H5N1.
Chúng ta cũng là nước đi đầu trong
việc nghiên cứu về tế bào gốc ứng dụng trong bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Như vậy
có thể nói CNSH của Việt Nam không có khả năng bị tụt hậu như lo ngại của độc
giả. Chúng tôi cũng cho rằng CNSH là thế mạnh của chúng ta, bởi chúng ta phải
duy trì 1 nền nông nghiệp phát triển bền vững và giữ vị thế là 1 quốc gia hàng
đầu về nông nghiệp trên thế giới.
Le Van Cong
[lecong_nhoce1@yahoo.com]: Khu
công nghệ cao Hòa Lạc chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, nguyên nhân tại sao? Tới đây
Bộ sẽ có giải pháp gì đẩy nhanh tiến độ xây dựng Khu Công nghệ cao (CNC) Hòa
Lạc theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Khu CNC Hòa Lạc được manh nha ý
tưởng từ năm 1998, nhưng thực sự bắt đầu được thành lập và đi vào hoạt động từ
năm 2002, cho đến nay, trải qua 10 năm nhưng chưa đạt được kỳ vọng của nhân dân
cũng như mong muốn của chính Bộ KHCN.
Có nhiều nguyên, trong đó về nguyên
nhân khách quan là công tác đền bù và giải phóng mặt bằng ở Hòa Lạc gặp rất
nhiều khó khăn. Do cơ chế là Hòa Lạc là một Khu CNC thuộc Bộ KHCN trong khi có
2 Khu CNC khác cũng là Khu CNC quốc gia nhưng lại thuộc UBND TP.HCM và TP.Đà
Nẵng mà việc giải phóng mặt bằng thuộc chức năng , thẩm quyền của địa phương.
Vì thế Bộ KHCN quản lý khu CNC Hòa
Lạc nhưng phải phối hợp với UBND tỉnh Hà Tây trước đây và UBND TP.Hà Nội hiện
nay để đền bù giải phóng mặt bằng. Trong khi quá trình giải phóng mặt bằng đang
thuận lợi thì Hà Tây sát nhập vào Hà Nội. Chúng ta đều biết giá đất của Hà Nội
cao gấp nhiều lần của Hà Tây, vì thế hộ dân trong khu vực này không chấp nhận
mức đền bù đã được kiểm đếm, dự toán trước đây.
Cho nên trong 3 năm qua gần như
không giải phóng được mặt bằng, chưa kể sự hợp tác về KHCN của Bộ với Hà Tây
tốt hơn Hà Nội hiện nay. Trước đây Hà Tây cử 1 đồng chí Phó Chủ tịch UBND trực
tiếp kiêm nhiệm làm Phó Trưởng ban quản lý Khu CNC Hòa Lạc, trực tiếp phụ trách
công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Nhưng trong 3 năm qua, Hà Nội quá bộn bề
với nhiều công việc nên chưa có đồng chí lãnh đạo của Hà Nội cùng với Bộ làm
công việc này. Chính vì thế không có mặt bằng sạch để xây dựng hạ tầng.
Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã đàm
phán với Nhật Bản và Nhật Bản đã đồng ý hỗ trợ dự án ODA cho xây dựng hạ tầng
của Hòa Lạc với phần I là 15 tỷ Yên tương đương hơn 200 triệu USD. Nhưng dự án
hạ tầng này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta có mặt bằng đã được giải
phóng, bàn giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư. Chính phủ yêu cầu trong hết năm
nay phải hoàn thiện xong công tác giải phóng hết mặt bằng.
Tuy nhiên chúng tôi cho rằng cố gắng
phải hết năm 2013 mới giải phóng hết được mặt bằng Khu CNC Hòa Lạc với diện
tích còn lại khoảng 800 ha. Tuy nhiên, chúng tôi yêu cầu Khu CNC Hòa Lạc phải
phối hợp với TP.Hà Nội, trong 800 ha đó, cố gắng không để tình trạng “xôi đỗ”,
nói cách khác là 1 nửa diện tích đã được giải phóng mặt bằng phải liền khoảnh
để có thể thi công các công trình hạ tầng, đường xá, thoát nước… để phục vụ cho
các nhà đầu tư xây dựng hạ tầng, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư vào sản xuất
công nghệ cao, nghiên cứu công nghệ cao trong Khu CNC Hòa Lạc.
Đầu năm nay Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã thị sát Khu CNC Hòa Lạc
và yêu cầu các Bộ, ngành có liên quan và UBND TP.Hà Nội phối hợp thì chúng tôi
hy vọng sẽ đẩy nhanh được tiến độ xây dựng, đáp ứng được mong mỏi của nhân dân
cả nước.
Dự kiến, trong năm nay hy vọng giải
phóng mặt bằng xong những khu vực được gọi là “xôi đỗ” để có thể triển khai
được dự án hạ tầng ODA của Nhật Bản. Hết năm 2013 cơ bản giải phóng xong diện
tích của toàn bộ Khu CNC xấp xỉ 1.600ha, khi đó chúng ta có thể làm tiếp phần
II là xúc tiến đầu tư và mời các tập đoàn, DN công nghệ cao của nước ngoài vào
nghiên cứu và sản xuất.
|
Ảnh VGP/Nhật Bắc
|
BTV: Xin Bộ trưởng cho biết chính
sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư, ưu đãi các chuyên gia, nhà khoa học có
trình độ cao về làm việc tại khu CNC đã được thực hiện đến đâu? Theo Bộ trưởng
chúng ta phải làm gì để sớm có được những “Thung lũng Silicon ở Việt Nam”?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Các Khu CNC được kỳ vọng trở thành
“Thung lũng Silicon” nhưng chính sách của chúng ta chưa đồng bộ. Về ưu đãi,
Chính phủ đã có chính sách ưu đãi đối với các Khu CNC quốc gia, đặc biệt chính
sách ưu đãi về thuế đối với các nhà đầu tư vào Khu CNC. Ví dụ thuế thu nhập DN,
đối với các nhà đầu tư đầu tư vào Khu CNC được hưởng mức ưu đãi cao nhất của
thuế thu nhập DN, 4 năm miễn hoàn toàn thuế TNDN kể từ khi có thu nhập chịu
thuế, 9 năm tiếp theo chỉ phải nộp 50% thuế TNDN và thuế suất chỉ có 10% cho
suốt đời dự án. Đây là ưu đãi rất lớn, nếu chúng ta biết rằng các DN thông
thường phải chịu thuế suất 25% và mới thành lập thì trước đây có ưu đãi là miễn
2 năm, giảm 4 năm nhưng bây giờ theo luật mới thì không còn chế độ miễn và
giảm.
Thứ 2 là thuế VAT, các DN đầu tư vào
Khu CNC cũng được ưu đãi cao nhất về thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu đối với
những trang thiết bị và nguyên liệu vật tư phục vụ cho quá trình nghiên cứu và
sản xuất ở Khu CNC.
Các nhà khoa học đến Khu CNC thì
chính sách ưu đãi còn hạn chế, ngay cả cán bộ quản lý làm việc trong Khu CNC
hầu như chưa được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Mấy năm qua, Bộ có thảo luận với Bộ
Nội vụ, Bộ LĐTBXH, Bộ Tài chính để đề nghị những người làm công tác quản lý ở
Khu CNC phải được hưởng chế độ ưu đãi tương tự như Khu Kinh tế Dung Quất hay
những Khu Kinh tế khác nhưng đến nay vẫn chưa được chấp nhận.
Vừa rồi Thủ tướng Chính phủ có chỉ
đạo về vấn đề này, do đó hy vọng trong thời gian sớm nhất các nhà quản lý sẽ
được hưởng phụ cấp tương đương các Khu Kinh tế khác.
Còn các nhà khoa học đến làm việc
tại đây, hiện nay Chính phủ mới có ưu đãi khung là sẽ được hưởng ưu đãi như các
nhà khoa học nước ngoài đến làm việc tại Khu CNC.
Bộ KHCN đã đề xuất và hy vọng trong
Đề án đổi mới cơ bản toàn diện và đồng bộ về cơ chế hoạt động KHCN thì các nhà
khoa học đến làm việc tại Khu CNC sẽ được hưởng những ưu đãi cao hơn, được
quyền tự chủ cao hơn và sẽ được ưu đãi theo đóng góp của họ đối với Khu CNC
cũng như đối với sự phát triển KHCN của đất nước.
Huy Vo Hung
[hungkiem.tr71l@...com.vn]:
Có quan điểm cho rằng, Nhà máy điện hạt nhân chỉ dành cho các nước phát
triển, một phần bởi trình độ KHCN của chính họ. Việt Nam là quốc gia đang phát
triển, chưa có khả năng hội đủ điều kiện để phát triển lĩnh vực này. Nhận định
của ông về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Ý kiến đó không hoàn toàn đúng, vì
trong số 31 quốc gia đang có nhà máy điện hạt nhân không phải đều là nước phát
triển, có nhiều nước đang phát triển cũng tính đến xây dựng nhà máy điện hạt
nhân cho mình. Ví dụ Bangladesh hay là một vài nước khác, kể cả các nước trong
khu vực ASEAN như Thái Lan, Indonesia.
Ở đây vấn đề là để đảm bảo an ninh
năng lượng, đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì
nhu cầu năng lượng của chúng ta theo tổng sơ đồ điện 7 là rất lớn trong khi các
nguồn năng lượng hóa thạch và tái tạo của chúng ta cho đến thời điểm này không
đáp ứng được.
Chúng ta đều biết dầu mỏ của chúng
ta hiện nay mới đáp ứng được nửa nhu cầu, vẫn phải nhập khẩu. Than trong quá
khứ xuất khẩu với tốc độ rất nhanh, nhưng từ năm 2011 bắt đầu phải nhập khẩu
than, đến năm 2020 lượng than nhập khẩu còn lớn hơn lượng than sản xuất ra.
Năng lượng mới và tái tạo đều được
quan tâm nghiên cứu và phát triển như năng lượng gió, mặt trời, sóng biển, địa
nhiệt. Nhưng các nhà máy sử dụng năng lượng tái tạo quy mô rất nhỏ, vừa qua nhà
máy điện gió ở Bình Thuận đi vào hoạt động thì tổng công suất mới chỉ trên
30MW, giá thành của năng lượng mới cho đến nay còn rất cao, đối với người dân
không chịu được giá của nhà máy điện gió và năng lượng mặt trời.
Trong thời gian từ nay đến năm 2020,
chúng ta cũng chưa nhìn thấy công nghệ để sản xuất điện thay thế được nguồn
năng lượng cổ điển như than, dầu, khí thiên nhiên và hạt nhân. Vì thế chúng ta
vẫn phải nghĩ đến phát triển nhà máy điện hạt nhân cho đến khi thế giới tìm
thấy được nguồn năng lượng thay thế.
Mặc dù trình độ công nghệ còn ở mức
khiêm tốn, tiềm lực kinh tế còn khó khăn nhưng nếu không giải quyết được bài
toán về nguồn năng lượng điện cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội thì đến năm
2020 Việt Nam không thể trở thành một nước công nghiệp hiện đại như chúng ta
mong muốn.
Vì vậy, chúng tôi vẫn kiên trì theo
đuổi phát triển điện hạn nhân và hy vọng sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà
nước, hy vọng vào trí tuệ của người Việt Nam và tâm huyết của đội ngũ cán bộ
KHCN trong ngành năng lượng hạt nhân thì chúng ta có đủ điều kiện làm chủ được
công nghệ và làm chủ được nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của chúng ta phát điện
sau năm 2020.
BTV: Có quan điểm cho rằng, phát
triển điện hạt nhân hiện nay là rất nguy hiểm (qua các sự cố tại Nga và Nhật),
các nước phát triển đang “bỏ” nguồn năng lượng này để chuyển sang phát triển
nguồn năng lượng sạch, an toàn hơn. Tại sao Việt Nam không ‘đi tắt, đón đầu”
như các nước phát triển đang làm?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Ý kiến này cũng có phần đúng. Sau
sự cố Chernobyn năm 1987, rất nhiều quốc gia phát triển đã dừng hoặc huỷ bỏ
chương trình điện hạt nhân của họ. Nhưng sau một thời gian thì người ta lại
thấy rằng, vẫn chưa có con đường đi nào khác, họ lại tái khởi động chương trình
điện hạt nhân, kể cả các nước châu Âu.
Vừa rồi năm 2011, sau sự cố
Fukushima, các quốc gia này lại một lần nữa giật mình và lại dừng chương trình
điện hạt nhân, kể cả Nhật Bản là một nước có 54 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt
động, theo thông tin báo chí, hôm qua đã đóng cửa lò phản ứng hạt nhân cuối
cùng.
Nhưng tôi biết rằng, có rất nhiều xu
hướng, kể cả tại Nhật Bản vẫn có kiến nghị sau khi nâng cấp mức độ an toàn thì
tái khởi động các nhà máy hạt nhân này. Trên thực tế nhiều quốc gia phát triển
tiếp tục chương trình điện hạt nhân của họ. Muốn bỏ qua giai đoạn phát triển
điện hạt nhân, nhưng chúng ta chưa nhìn thấy nguồn năng lượng nào khác có thể
thay thế nó.
Như tôi đã nói, dầu và than của
chúng ta đang cạn kiệt, năng lượng mới, công nghệ mới chỉ là sản xuất nhỏ và
giá thành rất cao, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước ta trong
giai đoạn tới. Vì thế, tại các nước phát triển, điện hạt nhân có thể chỉ chiếm
tỷ trọng không lớn, họ có thể đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân và tìm các
nguồn năng lượng khác thay thế, họ có thể có đủ tiền để mua dầu mỏ từ Trung
Đông, mua than từ các quốc gia khác, mua khí thiên nhiên từ Nga, nhưng với
chúng ta, tất cả những yếu tố đó đều là bài toán chưa thể giải đáp.
Chúng ta không đủ tiền nhập nguồn
nguyên liệu hoá thạch với giá ngày càng cao. Chúng ta cũng chưa có công nghệ
sản xuất điện từ năng lượng tái tạo như mặt trời, gió, thuỷ triều. Nếu chúng ta
làm điện hạt nhân hiện nay, chúng ta có thể sử dụng được nguồn ODA của các nước
phát triển.
Trong một chừng mực nào đó, nếu như
không có những sự cố khủng khiếp như thảm hoạ kép động đất, sóng thần thì các
nhà máy điện hạt nhân có thể nói là an toàn và kinh tế hơn so với các nhà máy
điện khác.
Các nhà máy điện dùng nguồn nhiên
liệu hoá thạch thải ra lượng khí nhà kính khổng lồ, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Các nhà máy thuỷ điện cũng tương tự như vậy, các hồ chứa cũng gây
rất nhiều hệ luỵ về môi trường. Chúng ta cũng không còn nguồn tiềm năng để làm
thuỷ điện. Nhà máy thuỷ điện Lai Châu chắc là nhà máy thuỷ điện lớn cuối cùng
của chúng ta.
Vì vậy, chúng ta không tránh khỏi
việc sử dụng điện hạt nhân. Vấn đề ở chỗ, chúng ta yêu cầu các đối tác phải
nâng mức độ an toàn lên cao hơn, và trong quá trình khảo sát địa điểm xây dựng
nhà máy, chúng ta cũng phải thận trọng hơn.
Nhưng tất cả những yếu tố đó đều làm
cho giá thành của nhà máy điện hạt nhân cao hơn rất nhiều so với mức dự toán
ban đầu. Và vì vậy, chúng ta lại càng phải tính toán một cách thận trọng hơn
cho việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tiếp theo. Hy vọng trong tương lai,
chúng ta có công nghệ khác, nguồn năng lượng khác thì không phải tiếp tục phát
triển điện hạt nhân.
Bùi Quốc Huy, Chùa láng – Láng
thượng – Đống đa - Hà Nội: Như
ông nói điện hạt nhân rất cần các chuyên gia giỏi, tuy nhiên nhà máy ĐHN đầu
tiên sẽ được khởi công trong năm 2014 và chính thức phát điện vào năm 2020.
Theo ông, chúng ta có đảm bảo được nhân lực cho nhà máy ĐHN khi nhà máy vận
hành?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tôi rất lo lắng về nguồn nhân lực
cho điện hạt nhân, nếu không có chính sách phù hợp mang tính đột phá thì chắc
chắn sẽ không chuẩn bị được đội ngũ cán bộ, cán nhà khoa học, kỹ thuật viên,
công nhân có đủ trình độ để vận hành nhà máy.
Mặc dù chúng ta đang có lợi thế là
đội ngũ cán bộ KHCN trong lĩnh vực hạt nhân tương đối mạnh, là kết quả của quá
trình đào tạo trong nhiều năm khi chúng ta còn mối quan hệ tốt đẹp với các nước
Đông Âu và Liên Xô cũ và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề này trong
thời gian đó. Tuy nhiên đội ngũ này bắt đầu có tuổi, chúng ta cần đào tạo cán
bộ trẻ tiếp cận với công nghệ mới với tri thức khoa học mới về công nghệ hạt
nhân.
Trong những năm qua chúng ta đã gửi
đi đào tạo ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Ấn
Độ rất nhiều cán bộ khoa học trẻ cũng như đã cử cán bộ khoa học có trình độ đi
bồi dưỡng nâng cao ở các nước này. Tuy nhiên để thu hút cán bộ trẻ ở lĩnh vực
này phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng vì đây là lĩnh vực rất vất vả và phải
chịu đựng rủi ro trong suốt cả cuộc đời khi làm việc về năng lượng nguyên tử.
Nếu chúng ta không kịp thời công bố,
công khai chế độ đối với những người đi học về năng lượng hạt nhân, công nghệ
hạt nhân cũng như công khai chế độ đối với những người sẽ làm việc trong nhà
máy điện hạt nhân và các cơ sở nghiên cứu trong nhà máy điện hạt nhân thì chắc
chắn không thu hút được những người giỏi vào làm việc trong lĩnh năng lượng hạt
nhân nói chung cũng như nhà máy điện hạt nhân nói riêng.
Chính phủ đã có một chương trình đào
tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân trong đó dành khoảng 2.000 tỷ đồng từ ngân
sách Nhà nước để đào tạo cán bộ khoa học trong lĩnh vực này từ trình độ cao
đẳng, đại học đến trên đại học cũng như đào tạo chuyên gia cho các lĩnh vực
khác nhau. Đồng thời yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam dành khoảng 1.000 tỷ
đồng từ ngân sách của Tập đoàn để đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân
vận hành nhà máy điện hạt nhân.
Tuy nhiên tôi cho rằng nguồn kinh
phí chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu chúng ta có chính sách đãi ngộ phù hợp, có
thể dành ra hàng chục tỷ USD để xây dựng điện hạt nhân thì chúng ta nên dành
một tỷ lệ thích đáng để đào tạo và đãi ngộ đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh
vực này. Có như thế chúng ta mới đảm bảo được sự an toàn cũng như hiệu quả hoạt
động của điện hạt nhân trong tương lai.
|
Ảnh VGP/Nhật Bắc
|
BTV: Có nhiều bạn đọc gọi điện hỏi
Nhà máy điện hạt nhân do Việt Nam xây dựng có an toàn không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đối với 2 nhà máy điện hạt nhân
đầu tiên ở Ninh Thuận, chắc chắn chúng ta chưa đủ kinh nghiệm để trực tiếp giám
sát quá trình xây dựng. Dĩ nhiên, xây dựng phải là người Việt Nam, nhưng chúng
ta sẽ phải thuê tư vấn giám sát nước ngoài, đặc biệt là những cơ quan có kinh
nghiệm xây dựng nhà máy điện hạt nhân trên thế giới.
Chúng tôi đã có chương trình hợp
tác, tìm kiếm đối tác, trước mắt thuê chuyên gia tư vấn trong việc thẩm định hồ
sơ thiết kế cũng như báo cáo đầu tư của các chủ đầu tư cũng như của các nhà
thầu.
Song song, chúng tôi gửi chuyên gia
đi đào tạo để có đủ trình độ giám sát toàn bộ quá trình xây dựng nhà máy, đưa
nhà máy vào vận hành, cùng với các nhà thầu quốc tế, nhà tư vấn giám sát quốc
tế trong quá trình đó, ta học hỏi kinh nghiệm của họ.
Chúng tôi cũng hy vọng nếu làm tiếp
nhà máy số 3 và 4 thì các chuyên gia của chúng ta có thể đủ trình độ để giám
sát, tư vấn và đảm bảo chất lượng công trình xây dựng nhà máy, đảm bảo tiêu
chuẩn quốc tế và Việt Nam.
BTV: Song song với việc chúng ta đưa
chuyên gia của chúng ta đi học tại nước ngoài thì Bộ trưởng có nghĩ rằng chúng
ta có thể đề xuất với Bộ GDĐT tại các trường đại học ở Việt Nam như Đại học
Bách Khoa (ĐHBK) hoặc những ĐH Kỹ thuật có thể thành lập những khoa đào tạo dài
hơn không phụ thuộc vào đào tạo tại nước ngoài?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Nếu làm việc trong lĩnh vực hạt
nhân thì 8 năm là thời gian quá ngắn để có đủ kinh nghiệm để làm được vấn đề
lớn. Tuy nhiên trong gói 2.000 tỷ đồng mà Chính phủ đã bố trí có phần đào tạo
trong nước, trên thực tế Ban Chỉ đạo Nhà nước về Dự án điện hạt nhân đã giao
nhiệm vụ cho các trường ĐH Kỹ thuật của Việt Nam như ĐHBK Hà Nội, ĐHQG Hà Nội,
ĐHBK TP.HCM, ĐHBK Đà Nẵng phối hợp với nhau để đào tạo nguồn nhân lực cho điện
hạt nhân.
Vấn đề này có một thuận lợi là ĐHBK
Hà Nội trong nhiều năm trước đây có bộ môn vật lý hạt nhân, có đào tạo kỹ sư về
vật lý hạt nhân nhưng do cơ chế thị trường trong mấy năm gần đây rất ít sinh
viên theo học ngành này nên số lượng kỹ sư được đào tạo về hạt nhân không đáp
ứng được yêu cầu.
Vì vậy, song song với việc giao cho
các trường ĐH Kỹ thuật của Việt Nam xây dựng chương trình đào tạo và đào tạo
trực tiếp các kỹ sư về hạt nhân thì chúng ta vẫn phải đưa đi nước ngoài. Các
trường tại nước ngoài có đầy đủ kinh nghiệm, trang thiết bị, truyền thống nên
họ đào tạo chắc chắn chất lượng cao hơn và đáp ứng nhu cầu của chúng ta.
Chúng tôi có chương trình đào tạo
chuyên gia cả về chuyên gia an toàn lẫn công nghệ để phục vụ điện hạt nhân. Một
điều may mắn nữa là Chính phủ Nga đồng ý giúp Việt Nam xây dựng Trung tâm KHCN
hạt nhân với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu thế hệ mới, công suất lớn, trị giá
toàn bộ công trình lên đến 500 triệu USD.
Có lẽ đây là công trình nghiên cứu
lớn nhất mà Việt Nam có trong thời điểm này. Hiện nay chúng ta đang lựa chọn
địa điểm cho hoạt động đầu tư để trong thời gian trước khi nhà máy điện hạt
nhân đi vào hoạt động thì chúng ta có thể hoàn thành Trung tâm KHCN hạt nhân
với đội ngũ cán bộ KH đủ trình độ và với trang thiết bị tiên tiến đáp ứng nhu
cầu phát triển điện hạt nhân của chúng ta.
Nguyen thu nguyet (thu.nguyetnbtu@...com):
Mới đây, trong nội dung của dự thảo thông tư liên tịch mà liên Bộ Khoa
học công nghệ, Công Thương, Giao thông vận tải và Công an đang xây dựng đã quy
định: “Người điều khiển xe mô tô, gắn máy đội mũ bảo hiểm thời trang, mũ nhái
mà không có tem CR hợp chuẩn sẽ bị xử phạt như mức không đội mũ bảo hiểm”. Thưa
Bộ trưởng đây có phải việc làm khi cơ quan chức năng khó kiểm tra, kiểm soát và
xử lý thì “đổ khó” cho người dân?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề mũ bảo hiểm chúng tôi đã
nhiều lần trao đổi với báo giới. Chính phủ đã quy định, người tham gia giao
thông phải đổi mũ bảo hiểm đảm bảo tính năng kỹ thuật theo quy chuẩn do nhà
nước quy định.
Tuy nhiên, thực tế, nhiều người đội
mũ không đúng quy chuẩn. Hay nói cách khác, đội mũ chỉ để đối phó với công an,
không phải để bảo vệ đầu của mình cũng như vì sức khoẻ của cộng đồng. Về quản
lý chất lượng mũ bảo hiểm, chúng tôi đã ban hành đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật, thông tư. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đội mũ không đúng quy
định vẫn diễn ra. Các nhà sản xuất vì trục lợi và người tiêu dùng vì ham rẻ nên
vẫn sản xuất và mua bán các loại mũ không phải là mũ bảo hiểm.
Tất nhiên, những loại mũ này rất rẻ
tiền và bày bán tràn lan, rất dễ mua. Nếu như nói rằng, những người đội mũ rởm,
mũ nhái không có tem, bị xử phạt thì coi là cơ quan nhà nước không quản lý
được, đổ khó cho người dân thì tôi cho không hẳn như thế.
Thực tế chúng ta quản lý việc này
rất chặt chẽ. Tất cả các doanh nghiệp nhập khẩu và sản xuất mũ bảo hiểm đều
phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và đem mẫu đến để thử nghiệm ở các
trung tâm tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ KHCN cũng như của các địa phương. Khi đạt
được tiêu chuẩn, đều được dán nhãn (tem CR) và được lưu thông. Chúng tôi cũng
yêu cầu tất cả các công ty sản xuất và nhập khẩu phải niêm yết công khai danh
mục các đại lý mà kinh doanh mũ bảo hiểm của mình cho người dân biết để không
mua phải mũ rởm. Vấn đề còn lại là người dân có chịu đến mua ở những đại lý bán
mũ tốt và có đăng ký hay không?
Những người sản xuất mũ rởm lách
luật bằng cách nói rằng, đấy không phải là mũ bảo hiểm, người ta bán cho người
đi bộ, tập thể dục, đi xe đạp và như thế cơ quan chức năng không thể xử lý
được.
Luật của chúng ta không cấm kinh
doanh mũ dành cho người đi xe đạp, người đi bộ. Trong khi người ta lại dùng mũ
đó để đi xe máy. Nếu các cơ quan quản lý phát hiện, cảnh sát giao thông phát
hiện, thì hoàn toàn có thể xử phạt, nhưng người ta sẽ lại lý sự rằng, tôi không
biết mũ này không dành cho người đi xe máy.
Tôi rất ủng hộ thành phố Đà Nẵng vừa
qua bán mũ đảm bảo chất lượng tốt, giá rẻ (50.000 đồng) để người dân được đổi
mũ cũ lấy mũ mới, đổi mũ rởm lấy mũ thật. Đây cũng là biện pháp hỗ trợ người
dân bởi nếu mua mũ 200-300.000 đ, họ thấy không phù hợp với điều kiện kinh tế
của họ. Nhưng nếu mua mũ thật, chỉ có giá 50.000 thì họ hưởng ứng. Hơn nữa,
lãnh đạo thành phố Đà Nẵng cũng yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp máy thử
nghiệm tại chỗ, mũ nào không đạt yêu cầu thì phá huỷ tại chỗ. Sau đó, bán lại
cho người điều khiển phương tiện mũ bảo hiểm đạt yêu cầu với giá chỉ 50.000
đồng.
Tôi không biết các tỉnh thành phố
khác có thể học tập Đà Nẵng được không vì ngân sách của TP, tỉnh phải hỗ trợ
rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng khuyến cáo nhân dân không nên tham rẻ, mua
mũ bảo hiểm kém chất lượng bày bán ở các đại lý không được uỷ quyền và mua mũ
chỉ để đối phó với cảnh sát giao thông.
Hơn ai hết, chúng ta phải ý thức
được, đội mũ là để bảo vệ chính mình. Chúng tôi, bên cạnh việc siết chặt việc
quản lý chất lượng mũ, yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu mũ công
khai niêm yết toàn bộ đại lý bán sản phẩm của mình, đăng ký chất lượng với cơ
quan nhà nước thì cũng mong nhân dân nâng cao tinh thần tự giác mua mũ đảm bảo
điều kiện kỹ thuật ở những đại lý đã được uỷ quyền của các doanh nghiệp sản
xuất có uy tín.
khoi van dinh
[phladongtu.11@...com]: Trong
những năm gần đây, vấn đề chất lượng và tiêu chuẩn hàng hóa đủ mọi cấp độ,
thành phần trở thành đề tài được xã hội rất quan tâm. Theo ông vì sao lại như
vậy và điều đó nói lên vấn đề gì của Việt Nam hiện nay?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Vấn đề này phản ánh rất rõ xu
hướng phát triển của VN. Nếu như trước đây trong giai đoạn bao cấp, hàng hóa
sản xuất không đủ dùng, người dân phải dùng mọi thứ hàng hóa, kể cả hàng hóa
chất lượng thấp. Nhưng ngày nay nền kinh tế của chúng ta đã phát triển, người
dân có quyền lựa chọn những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã
đẹp.
Hơn nữa chúng ta đã gia nhập WTO,
tham gia sân chơi chung với thế giới, sản phẩm hàng hóa của VN không thể tồn
tại được nếu không đáp ứng được tiêu chuẩn và chất lượng chung của thế giới,
không thể cạnh tranh được với hàng hóa của nước ngoài.
Vì thế, tôi cho rằng thái độ của
người dân quan tâm đến chất lượng của sản phẩm hàng hóa là điều đương nhiên và
đáng mừng. Người dân có thể không chấp nhận những hàng hóa có chất lượng thấp,
mẫu mã xấu, giá thành cao và có quyền lựa chọn buộc DN, buộc nền kinh tế đáp
ứng nhu cầu của họ.
Theo tôi đây là xu hướng đáng khích
lệ, là xu hướng lành mạnh để Việt Nam phát triển hơn nữa. Vì chúng ta không thể
phát triển được nếu như người dân vẫn chấp nhận hàng hóa như thời bao cấp, chấp
nhận mua lốp loại 2, mua 5 nan hoa thay vì mua cả bộ nan hoa của xe đạp…
Do đó, chúng tôi đồng tình với ý
kiến độc giả là xu hướng người dân quan tâm đến chất lượng của sản phẩm hàng
hóa kể cả vệ sinh an toàn sản phẩm là xu hướng đáng trân trọng và tất yếu trong
cơ chế thị trường của chúng ta.
Nguyễn Danh Minh, Phường Khuê Trung,
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng: Vấn
đề sở hữu trí tuệ tại Việt Nam cũng là một trong sự kiện đang được dư luận quan
tâm, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của Doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài.
Hiện nay DN Việt Nam đều nhận phần bất lợi về mình khi xảy ra tranh chấp về
thương hiệu ngoài lãnh thổ. Ông có biện pháp gì để hạn chế phần “thua thiệt”
cho các DN Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia WTO?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Vấn đề sở hữu trí tuệ là vấn đề
rất nóng, mặc dù trong thời gian qua, hoạt động sở hữu trí tuệ của ViệtNam đã
có những tiến bộ rõ rệt. Năm 2005, chúng ta đã có Luật Sở hữu trí tuệ. Năm
2009, chúng ta đã sửa đổi bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ. Đi đôi với việc ban hành
Luật, chúng ta đã có 1 hệ thống văn bản dưới luật để tổ chức, hỗ trợ cho doanh
nghiệp, tổ chức cá nhân trong xã hội bảo vệ quyền lợi của họ về sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, đúng như độc giả phản ánh, một số thương hiệu của chúng ta đã bị xâm
hại ở nước ngoài. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chúng ta là một nước mới
thoát khỏi đói nghèo, các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm tới bảo vệ thương
hiệu, bảo vệ tài sản trí tuệ của họ. Cho nên chúng ta còn rất thiếu kinh
nghiệm, thiếu nguồn lực để làm được việc đăng ký bảo hộ thương hiệu và tài sản
trí tuệ của mình ở nước ngoài như nước mắm Phú Quốc, võng xếp Duy Lợi, thuốc lá
Vinataba, cà phê Buôn Ma Thuột…
Bộ KHCN với vai trò là cơ quan quản
lý nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ, xác lập quyền, bảo vệ
quyền và thực thi quyền sở hũu trí tuệ của các tổ chức và cá nhân Việt Nam, đã
tiến hành nhiều hoạt động để giành lại thương hiệu này cho doanh nghiệp Việt
Nam. Ví dụ như cà phê Buôn Ma Thuột, hiện nay chúng tôi đang hợp tác với UBND
tỉnh Đắk Lắk làm việc với các đối tác nước ngoài để có được thoả thuận phù hợp,
giành lại chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột cho Đắk Lắk.
Tương tự như thế với Vinataba, chúng
tôi đã làm việc và thành công ở một vài địa bàn lấy lại thương hiệu này về cho
Vinataba.
Chúng tôi cho rằng, bên cạnh tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam, các cơ quan quản lý phải
cùng vào cuộc hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chúng tôi đã yêu cầu các bộ phận đại
diện KHCN của Việt Nam ở nước ngoài cùng với các cơ quan đại diện ngoại giao
của chúng ta tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam, phát hiện giúp địa bàn
nào mà hàng hoá Việt Nam có thể đến được, thì các doanh nghiệp sản xuất hàng
hoá đó phải sớm đăng ký để bảo hộ thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá của họ ở địa
bàn đó để tránh tình trạng bị lợi dụng.
Nếu bị xâm hại, các doanh nghiệp
phải hợp tác với các cơ quan quản lý bàn bạc các giải pháp hữu hiệu nhất để
giành lại thương hiệu. Tất nhiên, đây là cuộc đấu tranh đầy cam go, vì theo quy
định chung, việc đề xuất đăng ký bảo hộ 1 nhãn hiệu, thương hiệu, sản phẩm nào
đó, nếu chúng ta không làm, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài đều có thể đăng
ký và được cơ quan quản lý ở nước đó bảo hộ. Cho nên, chúng ta cũng phải tiên
lượng, địa bàn nào chúng ta có nhiều sản phẩm đến, khả năng xuất khẩu tốt, phải
sớm đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu doanh nghiệp.
Chúng tôi tin thời gian tới, với nỗ
lực của các cơ quan quản lý đặc biệt là Cục Sở hũu trí tuệ của Bộ KHCN cùng với
tinh thần của các doanh nghiệp, chúng ta sẽ hạn chế được những vi phạm này, hỗ
trợ doanh nghiệp tốt hơn trong việc bảo vệ thương hiệu của họ.
|
Ảnh VGP/Nhật Bắc
|
Một bạn đọc ở Hà Nội hỏi: Kính thưa Bộ trưởng, tại sao tôi
muốn nộp đơn đăng ký yêu cầu bảo hộ sáng chế lại phải nộp qua các văn phòng
luật sư mà không thể nộp trực tiếp cho Cục Sở hữu Trí tuệ. Tại sao Cục Sở hữu
Trí tuệ không thể nhận hồ sơ này qua email trong khi đó đa số các nước đã thực
hiện từ hơn 10 năm qua, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Bộ KHCN hay Cục Sở hữu Trí tuệ
không hạn chế việc nộp hồ sơ trực tiếp hay gián tiếp qua các công ty tư vấn.
Tuy nhiên, hồ sơ sáng chế là một loại hồ sơ rất phức tạp, vì vậy nếu như các cá
nhân, các nhà khoa học hoặc những người yêu thích khoa học có sáng chế, có ý
tưởng tự mình xây dựng các hồ sơ có thể mất rất nhiều thời gian, công sức và
phải làm đi làm lại nhiều lần.
Nếu bạn liên hệ trực tiếp với Cục Sở
hữu Trí tuệ thì bạn vẫn được hướng dẫn nhưng vẫn phải tự làm hồ sơ thì khó khăn
hơn nhiều so với việc bạn thông qua công ty tư vấn, văn phòng luật sư vì họ đã
có kinh nghiệm rất nhiều năm làm hồ sơ giúp DN, các tổ chức, cá nhân, nên thời
gian xây dựng và hoàn thiện hồ sơ được rút ngắn.
Hơn nữa, họ có kinh nghiệm hơn trong
việc hoàn thiện và trình hồ sơ này để được xem xét. Họ có thể có cơ sở dữ liệu
mạnh để biết ngay sáng chế của bạn đã được đăng ký ở đâu trên thế giới.
Chúng ta phải biết rằng thế giới là
vô cùng rộng lớn, hiện có hàng trăm triệu sáng chế đã được đăng ký, được bảo hộ
hoặc đã hết thời gian bảo hộ. Một trong những tiêu chí để được đăng ký sáng chế
là tính mới tức là chưa được ai đăng ký, sử dụng, vì thế nếu bạn đăng ký sáng
chế qua công ty tư vấn, văn phòng luật sư chỉ tạo điều kiện tốt hơn, rút ngắn
thời gian để biết được rằng sáng chế của mình có mới không, hồ sơ mô tả kỹ
thuật làm có tốt không, chứ không hạn chế nộp trực tiếp cho Cục Sở hữu Trí tuệ.
Bên cạnh đó, Luật của VN và quốc tế
thì quyền ưu tiên là vấn đề không thể không làm, tức là đăng ký cùng một sáng
chế hơn kém một giây. Thế giới có thể có hàng nghìn người có tư duy giống nhau,
cùng nghĩ ra, ai đăng ký trước người đó được quyền ưu tiên trước, chỉ sớm 1
giây đã được ưu tiên. Nếu đăng ký qua email thì không đảm bảo tính ưu tiên vì
vậy ở Cục Sở hữu Trí tuệ có 2 Văn phòng đại diện ở TP.HCM và Đà Nẵng nhưng nối
mạng để đảm bảo tính ưu tiên vì ý tưởng của bạn có thể bị người khác đánh cắp,
lợi dụng hoặc người đó cùng có ý tưởng với bạn, nếu không sử dụng quyền ưu tiên
này thì bạn sẽ bị thiệt thòi.
Do đó không thể đăng ký sáng chế hay
giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa qua email hay bất kỳ phương tiện thông
tin đại chúng nào khác mà phải đăng ký trực tiếp tại cơ sở tiếp nhận hồ sơ này
là Cục Sở hữu Trí tuệ. Chúng tôi chỉ căn cứ vào việc cơ quan quản lý nhận được
hồ sơ đăng ký của bạn theo đồng hồ của cơ quan quản lý. Vì vậy chúng ta không
thể nộp đơn để dành quyền ưu tiên qua mạng internet. Một kênh duy nhất để chúng
ta dành quyền ưu tiên đó là cơ quan quản lý nhà nước nhận hồ sơ của chúng ta.
BTV: Thưa Bộ trưởng, Bộ trưởng có
nghĩ rằng có khi nào đồng hồ của cơ quan quản lý Nhà nước bị sai không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đồng hồ dù sai hay đúng thì vẫn
thể hiện trình tự cơ quan quản lý Nhà nước nhận hồ sơ. Có thể lệch với đồng hồ
quốc gia một vài giây, vài phút nhưng 3 người đến nộp có người trước, người
sau, đồng hồ đó chỉ chấp nhận đối với quy trình của người nộp hồ sơ chứ không
liên quan đến giờ GMT, hay giờ địa phương.
Van Hung Cuong
[hungcuongvan_691@gmail.com]: Là
người nhiều năm làm khoa học và nay ở cương vị quản lý cao nhất của ngành thì
điều gì còn làm ông băn khoăn, trăn trở nhất? Ông có điều gì muốn chia sẻ với
các nhà khoa học Việt Nam?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Nếu nói về những điều tôi tâm đắc,
trăn trở, thì có 3 việc mà tôi vẫn nói rằng tôi còn nợ các nhà khoa học 2 trong
3 việc này.
Thứ nhất là nguồn đầu tư cho KHCN
hiện còn quá khiêm tốn. Mặc dù nhà nước dành 2% tổng chi ngân sách quốc gia
hàng năm, nhưng tính ra giá trị tuyệt đối, chúng ta mới có khoảng gần 700 triệu
USD, tình bình quân thì mỗi người chưa được 10 USD/người dành cho KHCN. Nếu kể
cả nguồn đầu tư của xã hội từ doanh nghiệp, chúng ta chưa có quá 1 tỷ USD, và
tính bình quân thì chúng ta mới có hơn 10 USD/người cho KHCN. Đây là mức quá thấp
so với các nước trên thế giới, kể cả các nước lân cận trong khu vực. Nếu chúng
ta biết rằng, Hàn Quốc có mức đầu tư trên đầu người tới 1000 USD, hay Trung
Quốc mức đầu tư bình quân đầu người đã vượt quá 30 USD. Vì vậy chúng ta phải
làm sao tăng được nguồn đầu tư cho KHCN, chủ yếu từ xã hội, từ doanh nghiệp.
Hiện nay, chúng ta đã kêu gọi doanh
nghiệp dành 10% lợi nhuận trước thuế cho phát triển KHCN, nhưng rất ít doanh
nghiệp làm được việc này. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân, doanh
nghiệp của chúng ta quá nhỏ và siêu nhỏ. 10% lợi nhuận trước thuế của họ cũng
chỉ đáng giá một vài chục triệu đồng, may lắm là vài trăm triệu đồng, không đủ
để họ đổi mới CN của chính họ, không đủ để đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới.
Vì thế, chúng tôi đang kiến nghị với
Chính phủ, Quốc hội là sắp tới có thể huy động nguồn đóng góp này vào quỹ phát
triển KHCN của địa phương, tỉnh và khi chúng ta huy động được nguồn đóng góp
của hàng nghìn doanh nghiệp tại địa phương, tỉnh có đủ nguồn đầu tư cho một số
doanh nghiệp hàng đầu hay trọng yếu của địa phương đó để đổi mới CN, tạo sản
phẩm mới.
Chúng tôi cũng mong muốn hợp tác
quốc tế, trong những năm qua thực tế hợp tác quốc tế theo nghị định thư tức là
những đề tài, dự án hợp tác quốc tế của chúng tôi chứng tỏ là có thể thu hút
đầu tư nước ngoài cho hoạt động KHCN của Việt Nam. Cứ một đồng chúng ta bỏ ra
để hợp tác theo nghị định thư, chúng ta có thể lấy được 1,5-2 đồng từ nước
ngoài. Như vậy, nếu chúng ta đầu tư 100 triệu USD cho các dự án hợp tác theo
nghị định thư, chúng ta có thể lấy được vài trăm triệu USD từ nước ngoài tăng
thêm, bổ sung cho nguồn đầu tư của chúng ta.
Thứ 2, cơ chế tài chính cho KHCN,
chúng ta đã có rất nhiều năm áp dụng một cơ chế tài chính, hành chính chứ không
phải cơ chế tài chính sự nghiệp cho hoạt động KHCN. Chúng ta phải lập kế hoạch
KHCN trước 1,5 năm để tới khi có tiền thì nhiều đề tài, dự án đã lạc hậu, không
còn cần nghiên cứu nữa.
Nhiều dự án không tiếp tục thực hiện
được vì tốc độ trượt giá đã vượt quá dự toán được duyệt. Nhiều đề tài, dự án
cần bổ sung kinh phí thì thời gian chờ đợi quá dài, không thể điều chỉnh được.
Thêm nữa, thủ tục thanh quyết toán
như độc giả đã đề cập và tôi đã nói còn rườm rà, phức tạp, không tạo điều kiện
cho các nhà khoa học. Nhiều nội dung chi chưa được bổ sung, nhiều mức chi rất
thấp, nếu như thanh quyết toán qua Kho bạc Nhà nước thì cơ chế không thông
thoáng như thanh quyết toán qua các quỹ. Nhiều Kho bạc vẫn bắt đầy đủ chứng từ,
hoá đơn đối với những nội dung đã được khoán. Đây là nội dung rất vô lý.
Thứ 3 là chính sách đãi ngộ đối với
cán bộ khoa học. Hiện nay trong hệ thống cán bộ công chức, viên chức, chỉ còn
cán bộ khoa học tức là các nghiên cứu viên và kỹ sư là không có chế độ phụ cấp
gì ngoài lương. Đây là điều rất bất hợp lý vì chúng ta biết rằng, cán bộ, công
chức, viên chức ở các lĩnh vực khác đều có phụ cấp, thậm chí là 3-4 loại khác
nhau như phụ cấp nghề, thâm niên, giữ liêm… Tổng phụ cấp ấy trong một số lĩnh
vực có thể còn lớn hơn cả lương cơ bản. Trong khi đó cán bộ khoa học chỉ có thể
sống bằng nghề, sáng tạo, chất xám, họ lại không có phụ cấp nào ngoài lương.
Do vậy, nếu không có chính sách đãi
ngộ thoả đáng, hợp lý và ở mức cao đối với cán bộ KH, chắc chắn chúng ta khó có
những chuyên gia hàng đầu, khó có tổng công trình sư, kỹ sư trưởng để có thể
chủ trì những công trình lớn của quốc gia như cầu dây văng Bãi Cháy, những con
tàu 100.000 tấn, dàn khoan tự nâng 90 m nước, 120 m nước, như nhà máy điện hạt
nhân.
Như vậy, chúng tôi mong mỏi xã hội
đồng thuận để các bộ ngành cùng với Chính phủ có thể ban hành được những cơ chế
chính sách tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà khoa học được đãi ngộ thoả
đáng, tạo điều kiện tốt nhất, đóng góp trí tuệ cho xã hội, đất nước một cách
xứng đáng với mong mỏi của Đảng, Nhà nước và của nhân dân.
Nhân dịp đối thoại trực tuyến tại
Cổng TTĐT Chính phủ với nhân dân, qua Cổng TTĐT Chính phủ và các phương tiện
thông tin đại chúng, tôi rất cảm ơn sự quan tâm của đông đảo nhân dân, sự quan
tâm của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đối với hoạt động KHCN.
Chúng tôi cũng kêu gọi các nhà KH,
các viện, trường, các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lý trong lĩnh vực KHCN
đồng tâm hiệp lực xây dựng những cơ chế chính sách đóng góp cho đất nước thông
qua những đề tài, dự án khoa học có sản phẩm trình độ cao, áp dụng vào thực
tiễn đem lại hiệu quả kinh tế cao để thực hiện bằng được những mục tiêu chiến
lược mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đó là chúng ta phải có một nền KHCN
tiên tiến, xứng đáng với mong mỏi của Đảng, Nhà nước, xứng tầm với các quốc gia
trong khu vực ASEAN và một số lĩnh vực có thể đạt trình độ quốc tế.
BTV: Trong khoảng thời gian ngắn, Bộ
trưởng Nguyễn Quân đã trả lời trực tiếp vào các vấn đề trong lĩnh vực KHCN, từ
những vấn đề lớn, chiến lược đến những vấn đề rất thiết thực và gần gũi với các
nhà khoa học và người dân. Tuy nhiên, do thời gian có hạn trong khi số lượng
câu hỏi người dân gửi đến rất nhiều, chúng tôi sẽ tập hợp, gửi đến các đơn vị,
cục, vụ chức năng của Bộ để xem xét trả lời. Những thông tin này cũng sẽ được
đăng tải trên Cổng TTĐT Chính phủ. Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng Nguyễn Quân. Cảm
ơn sự theo dõi của quý vị.