Kinh nghiệm của Nhật Bản, Đài Loan, Australia trong sản xuất chè là tập trung đầu tư thâm canh nâng cao năng suất chè ở các thời vụ mà nguyên liệu có chất lượng tốt để chế biến ra sản phẩm chè có giá trị cao. Ở những thời vụ nguyên liệu có chất lượng thấp thì không thu hoạch để nuôi tán, làm vật liệu tủ gốc hoặc chế biến các sản phẩm khác ngoài chè có giá trị thấp hơn như: kem đánh răng, xà bông, mỹ phẩm, bánh kẹo,....
Mặt khác, tình trạng khủng hoảng lao động trong những tháng thu hoạch chè chính (vụ hè - thu) vẫn thường xảy ra ở các vùng chè lớn trên cả nước. Mặc dù việc áp dụng cơ giới hóa trong khâu thu đã được áp dụng, nhưng tỷ lệ hộ áp dụng còn thấp. Nên việc rải vụ, kéo dài thời gian thu hoạch chè đông - xuân sẽ góp phần làm cân bằng tình trạng trên.
Thời gian qua, việc sản xuất đông - xuân đã được thực hiện tại một số vùng chè trong nước với diện tích rất nhỏ. Tuy nhiên, sự sinh trưởng và phát triển của cây chè phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó thời tiết khí hậu, kỹ thuật đốn hái, giữ ẩm, bón phân là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất chè đông - xuân.
Xuất phát từ thực tế trên Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng đề xuất Đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất chè vụ Đông - Xuân để nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm chè ở vùng miền núi phía Bắc”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
1) Trong điều kiện bình thường (không tưới nước) sản lượng chè có tương quan thuận với nhiệt độ và lượng mưa ở cả 3 địa điểm nghiên cứu. Sản lượng chè của các tháng có lượng mưa trung bình trên 100mm tại Thái Nguyên, Hòa Bình và Lai Châu chiếm lần lượt 75,5%, 91,5% và 76% tổng sản lượng chè cả năm.
2) Tưới nước bổ sung trong vụ đông xuân (từ tháng 10 đến hết tháng 3) 5 ngày 1 lần với lượng tưới 1000m3/ha/tháng đã làm tăng số lứa hái chè trong vụ đông xuân lên 4 lứa, tăng sản lượng vụ đông xuân lên 15,25 lần, tăng tỷ lệ chè loại A, B lên 86,4% và cho thu lợi nhuận 87,267 triệu đồng/ha, cao nhất trong các công thức thí nghiệm.
3) Sử dụng rơm, rạ với lượng 30 tấn/ha kết hợp với hạt polymer siêu ngậm nước với lượng 50kg/ha.
4) Sử dụng các phương pháp giữ ẩm trong điều kiện có tưới nước đã làm tăng sản lượng chè cả năm 17%, đạt 95,35 tạ/ha, lợi nhuận đạt 104,0 triệu đồng/ha, tăng 38% so với đối chứng.
5) Trong điều kiện có tưới nước thời vụ đốn có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng búp chè. Công thức đốn 15/4 rút ngắn thời gian từ đốn đến thu hái lứa đầu 32 ngày, đồng thời kéo dài thời gian cho thu hoạch búp 16 ngày, nâng sản lượng vụ đông xuân lên 29,08%, cho lợi nhuận đạt 88,76 triệu đồng/ha, cao hơn đối chứng 40%.
6) Bón tăng 30% lượng phân khoáng (N, P, K) trong điều kiện có tưới nước bổ sung đã làm cho cây chè sinh trưởng mạnh hơn, sản lượng vụ đông xuân tăng 9%, sản lượng cả năm tăng 19%, lợi nhuận đạt 99,58 triệu đồng/ha cao hơn đối chứng 16%.
7) Trong điều kiện tưới nước, bón phân đạm với tỷ lệ 20%:20:10%:10%:20%:20% vào các tháng 1,3,5,7,9,11 làm cho cây chè sinh trưởng mạnh hơn, tăng số lứa hái trong vụ đông xuân lên 5 lứa, tăng sản lượng vụ đông xuân lên 33,26% tổng sản lượng cả năm, lợi nhuận đạt 108,6 triệu đồng/ha, cao hơn đối chứng 18,5%.
8) Áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào mô hình ở các địa phương đã nâng tỷ trọng sản lượng chè vụ đông xuân lên từ 26,8 – 33,6% tổng sản lượng chè cả năm, lợi nhuận đạt từ 64,8 đến 133,4 triệu đồng/ha, cao hơn đối chứng từ 2,5 đến 3,6 lần so với đối chứng.
*Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 14254/2017) tại Cục Thông tin KHCNQG.