Trong những năm gần
đây, xác định được vai trò quan trọng của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ,
Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản nhằm đẩy mạnh việc phát triển công
nghiệp hỗ trợ như: Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN về việc phê duyệt Quy hoạch
phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 của
Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương); Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày
24/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công
nghiệp hỗ trợ; Quyết
định số 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 về Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu
tiên phát triển; Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực vực
công nghiệp hỗ trợ”; Nghị định số 111/NĐ-CP ngày 03/11/2015 của Chính phủ về
phát triển công nghiệp hỗ trợ…. Đặc
biệt mới đây nhất, ngày 16/5/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP
về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Theo đó đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 là “xây dựng doanh
nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất
1 triệu doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh. Khu vực tư nhân Việt Nam đóng góp Khoảng 48 -
49% GDP, Khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) đóng góp Khoảng 30 - 35% GDP. Năng suất lao động xã hội tăng Khoảng
5%/năm. Hàng năm, có Khoảng 30 - 35% doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động đổi mới sáng tạo”. Nghị định đã đặt ra hàng loạt giải
pháp phát triển doanh nghiệp, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm của các Bộ, ngành
trong việc tháo gỡ khó khăn và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là việc
hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp sáng tạo. Phải khẳng định rằng, cho đến nay, hệ thống chính
sách khuyến khích của Nhà nước ta về phát triển công nghiệp hỗ trợ đã khá đồng
bộ, có rất nhiều ưu đãi vượt trội. Tuy nhiên, để vào được tới các doanh nghiệp
đang có nhiều vấn đề cần bàn.
Chúng
ta cũng đã có nhiều cố gắng để đầu tư, phát triển các doanh nghiệp ngành công
nghiệp hỗ trợ nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngành công nghiệp ở nước ta.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam trong thời
gian qua còn rất nhiều hạn chế, yếu kém và đã được đề cập trong rất nhiều báo
cáo, cụ thể: công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ
khai, còn manh mún, kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành
công nghiệp chế tạo, lắp ráp; các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở
nước ta còn rất ít, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh yếu kém; các sản phẩm
hỗ trợ của nước ta còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, giá
lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu; nhân lực phục vụ công nghiệp hỗ
trợ chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng…
Cũng
đã có khá nhiều cuộc Hội thảo chuyên đề của các cấp Bộ, ngành được tổ chức nhằm
đưa ra các giải pháp hướng đến doanh nghiệp, đó là: hoàn thiện lại quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ; đổi mới các
chính sách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ; tăng cường sự liên
kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ; hiện đại
hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển;
Hay là Nhà nước cần tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực
hiện quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ… Tuy nhiên, kết quả đến nay cũng
chưa được khả quan. Nhìn nhận lại các vấn đề về phát triển công nghiệp hỗ trợ
nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô, xe máy và đặc biệt là “cuộc tìm kiếm”
các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất sản phẩm linh kiện cho điện tử
Samsung thời gian qua mặc dù đã có sự vào cuộc của rất nhiều Bộ, ngành, các tổ
chức Hội, Hiệp hội … nhưng đến nay cho ta thấy mối lo ngại của nhà nước dễ trở
thành “con số không” là có sơ sở. Cuộc Tọa đàm “Khoa
học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp hỗ trợ trong sản xuất sản phẩm
mang thương hiệu Việt”
ở quy mô
cấp Vùng được tổ chức tại Thành phố Hải
Phòng ngày 12/5/2015 giữa Bộ KH&CN với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
nam trên cơ sở xuất phát từ hai phía: một bên là các doanh nghiệp “cầu” như Công
ty TNHH Ngôi nhà thông minh BKAV (sản phẩm SMARTHOME, điện thoại Bfone); Công ty Công ty Điện cơ Hải Phòng
(sản phẩm Quạt điện cơ) Hải Phòng; Công ty Chế tạo máy Vinacomin- Quảng Ninh,
Công ty Ô tô Chiến thắng Hải Phòng (sản phẩm ô tô)…. đã và đang sản xuất sản phẩm thương hiệu Việt, họ đã trăn trở và đã phải
bỏ nguồn kinh phí rất lớn trong nghiên cứu, thiết kế và làm chủ công nghệ của sản
phẩm thương hiệu Việt, một sự thật là chính họ cũng đang phải ra nước ngoài tìm
kiếm hàng trăm đối tác gia công cho họ các linh kiện phụ trợ; một bên là các
doanh nghiệp đang có khả năng “cung” từ những năng lực sẵn có, vì thế chính họ
đang có nhu cầu rất lớn để cùng liên kết hợp tác với các doanh nghiệp trong nước
để sản xuất linh kiện, làm tăng tỷ lệ nội địa hóa và mang lại lợi nhuận cho quốc
gia, điều đó giúp cho các nhà quản lý cùng các cơ quan hữu quan đúc rút được
các kinh nghiệm từ thực tiễn.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong phát
triển công nghiệp hỗ trợ như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan….cũng cho ta thấy
những vấn đề cần học hỏi như: xây dựng mối liên kết chặt chẽ và thông suốt giữa các
doanh nghiệp tham gia vào CNHT và công nghiệp lắp ráp, chế tạo; xác định doanh nghiệp hạt nhân; nâng tầm doanh nghiệp
sản xuất CNHT là các nhà thầu phụ…là các nội dung được đưa vào chính sách hỗ trợ
của nhà nước, nhờ đó mà các nước đã thành công trong phát triển CNHT.
Tất cả các
điều trên đặt ra bài toán, mong muốn chúng ta cùng nhìn nhận lại cả về nhận thức
cũng như hành động thực tiễn, kể cả từ phía các nhà quản lý. Chủ đề của Diễn
đàn hôm nay là bàn đến “Các giải pháp về vốn cho phát triển CNHT”. Tuy nhiên,
nói đến phát triển CNHT mục đích cuối cùng là nói đến phát triển sản xuất các sản
phẩm phụ trợ phục vụ cho sản xuất công nghiệp lớn, theo đó không thể thiếu được
yếu tố công nghệ. Vì vậy, trong khuôn khổ diễn đàn, xin được đặt vấn đề ở hai nội
dung:
Thứ
nhất (Bài toán về công nghệ sản xuất sản phẩm): Chúng ta đều biết, để có được sản phẩm hoàn chỉnh,
vấn đề cốt lõi là tiêu chuẩn của sản phẩm đó thị trường đang đòi hỏi ở mức nào,
yêu cầu kỹ thuật ra sao? Để giải quyết bài toán đó tất yếu là phải có công nghệ
tương ứng. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay,
việc tìm kiếm công nghệ phù hợp chưa chắc đã phải là bài toán quá khó vì các
doanh nghiệp dù là trong nước hay nước ngoài cũng sẽ sẵn sàng được mong muốn hợp
tác và chuyển giao nhằm phát triển mang lại lợi nhuận từ công nghệ họ đã có, sự
“độc quyền” về công nghệ trong thời đại hiện nay sẽ không thể kéo dài lâu được.
Ở đây, xin được bàn sâu đến yếu tố có vai trò đặc
biệt quan trọng, đôi khi mang tính quyết định, đó là nguồn nguyên vật liệu đầu
vào, chúng ta hãy nhìn nhận từ thực tế là ta đã có gì để khẳng định có được các
nguyên liệu đầu vào của ta có thể đáp ứng cho việc triển khai các công nghệ sản
xuất. Với tiềm năng về tài nguyên của chúng ta, nguồn nguyên liệu thô có thể khẳng
định là rất dồi dào, vấn đề là làm sao để chúng ta tạo ra được nguồn nguyên liệu
đáp ứng yêu cầu kỹ thuật để cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ? Chúng ta đều biết, một sản phẩm chứa đựng rất nhiều các
linh kiện, phụ kiện được thiết kế theo các tiêu chuẩn riêng, các sản phẩm điện,
điện tử, sản phẩm công nghệ cao lại càng đòi hỏi yêu cầu của nguyên liệu đặc
thù, đáp ứng được yêu cầu rất khác biệt so với vật liệu thông thường; chi phí
cho nguyên vật liệu tuy không chiếm nhiều trong giá thành sản phẩm hoàn chỉnh
nhưng lại là yếu tố quyết định đến sự thành công trong phát triển công nghiệp hỗ
trợ. Bài toán về sản phẩm điện tử của Samsung hay Sony được sản xuất tại Việt Nam
cho ta thấy rõ điều này, vì không có nguyên liệu đầu vào nên các doanh nghiệp của
chúng ta nếu có đầu tư cho phát triển CNHT, ngoài đầu tư dây chuyền công nghệ sản
xuất linh kiện, phụ kiện, còn phải nhập hầu hết nguyên liệu từ nước ngoài, đôi
khi chỉ cón lại giá trị gia công….Các doanh nghiệp sẽ không có điều kiện và
cũng không có đủ khả năng để độc lập nghiên cứu sản xuất nguyên liệu đầu vào bởi
yếu tố thị trường đơn lẻ. Vấn đề đặt ra là phải phân định được trách nhiệm cũng
như sự quan tâm đầu tư từ cả hai phía: (1) Đối với cơ quan quản lý cần có
nghiên cứu chung để xác định được nhu cầu tương ứng với quy hoạch phát triển
ngành, để làm cơ sở hoạch định nội dung và đặt hàng nghiên cứu công nghệ tạo
nguồn nguyên liệu (đòi hỏi nội dung nghiên cứu khoa học rất lớn và có nhiều rủi
ro, cần chi phí rất lớn nên cần có sự đầu tư của nhà nước, hình thành được các
cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu được nhà nước bảo
trợ); (2) Đối với hệ thống doanh nghiệp, khi có nguồn nguyên liệu đầu vào đáp ứng
cho yêu cầu sản xuất, bài toán công nghệ trong sản xuất sản phẩm hỗ trợ sẽ thuộc
về doanh nghiệp, các doanh nghiệp khi đã quan tâm và mạnh dạn đầu tư, chắc chắc
họ sẽ có được các thông tin và sự tư vấn về công nghệ sản xuất sản phẩm từ các
kênh khác nhau (kể cả từ các cơ quan nhà nước khi họ có đặt hàng). Việc thúc đẩy
sản xuất lúc này là do Chiến lược phát triển ngành, do thị trường và cơ chế hỗ
trợ từ nhà nước.
Thứ
hai (Bài toán về vốn): Trong thời
gian qua, với sự đồng hành của các cơ quan nhà nước, hàng loạt các chính sách hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, nhất
là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đã được ban hành. Chỉ xét
riêng về vốn cũng đã có rất nhiều chính sách, ngoài việc hỗ trợ, tài trợ thông
qua các nghiên cứu, ứng dụng Chính phủ cũng đã cho phép hình thành các Quỹ để hỗ
trợ, cho vay đối với các doanh nghiệp tùy theo từng lĩnh vực: Quỹ hỗ trợ đầu
tư; Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quỹ phát triển KH&CN; Quỹ đổi mới
công nghệ quốc gia….(Theo báo cáo của Bộ Tài chính, đến 2015, cả nước có khoảng 40 Quỹ/loại Quỹ tài
chính nhà nước được thành lập với mục đích, quy mô, tính chất, phạm vi hoạt động
khá đa dạng. Nguồn vốn hoạt động của các Quỹ tài chính nhà nước, bao gồm: nguồn
vốn ngân sách nhà nước (NSNN) hỗ trợ gồm vốn điều lệ, hỗ trợ kinh phí cho hoạt
động thường xuyên, hỗ trợ khác. Một số Quỹ vừa được NSNN hỗ trợ vốn thành lập
ban đầu, vừa được hỗ trợ kinh phí trong quá trình hoạt động. Các Quỹ tài chính
nhà nước đều có quy định riêng về chế độ quản lý tài chính, kế toán. Tuy nhiên,
hiện nay chưa có tiêu chí quy định rõ loại hình hoạt động của Quỹ (có Quỹ là tổ
chức tài chính nhà nước, Quỹ là đơn vị sự nghiệp,...) đa phần được quy định
trong các văn bản cá biệt về thành lập Quỹ). Vấn đề xin được nêu
ở đây là nhìn tổng thể có rất nhiều Quỹ mà mục tiêu hướng đến việc hỗ trợ, ưu
đãi cho doanh nghiệp để phát triển sản xuất, tuy nhiên việc tiếp cận để được hưởng
các ưu đãi trên đang rất vướng đối với doanh nghiệp, có thể kể đến một vài lý
do:
+
Theo Nghị định/Quyết định của Chính phủ về việc hình thành Quỹ tài chính nhà nước
đều được khẳng định rõ, Quỹ được mở tài khoản tại Kho bạc hoặc các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên, theo quy định quản lý và cách hiểu còn khác nhau nên hầu
hết các Quỹ (nhất là ở các bộ, ngành đang quản lý) đều chỉ được mở tài khoản tại
Kho bạc nhà nước (Lý do rất đơn giản là được cấp một phần từ nguồn ngân sách
nhà nước nên phải thực hiện theo Luật
ngân sách). Chúng ta đều biết, hệ thống Kho bạc nhà nước không thực hiện chức
năng cho vay theo hình thức tín dụng, nguồn ngân sách nhà nước được bố trí cho
Quỹ để thực hiện hỗ trợ theo hình thức vay (Kể cả có lãi hoặc không lãi) cần phải
được hiểu là đã được chuyển từ nguồn ngân
sách sang hình thức hoạt động tín dụng,
theo đó phải được thực hiện theo Luật các
tổ chức tín dụng. Đây đang là vướng mắc lớn nhất khiến cả cơ quan quản lý nhà
nước dù rất muốn nhưng không thể vận hành được và các doanh nghiệp cũng không
thể đủ điều kiện để vay (về bản chất hai loại thủ tục hồ sơ vì thực hiện theo
hai Luật nên đang khác nhau). Vì vậy, các Quỹ tài chính nhà nước với mục tiêu hỗ
trợ cần phải được xác lập rõ nguồn vốn dành cho vay và phải được chuyển ngay
vào tài khoản ngân hàng thương mại để thực hiện cho vay.
+ Về
hồ sơ: Do việc hình thành các Quỹ theo các mục tiêu khác nhau nên mỗi Quỹ đều
có Điều lệ quy định riêng, theo đó Thông tư về quản lý (cả nội dung và tài
chính) cũng được ban hành riêng kèm theo các mẫu biểu hướng dẫn theo yêu cầu của
từng loại hình (Có sự khác nhau do quy định của Luật ngân sách và Luật các tổ
chức tín dụng). Điều này dẫn đến các doanh nghiệp đang rất khó tiếp cận để diễn
giải nội dung chi tiết, phụ thuộc khá nhiều về cơ quan quản lý dẫn đến việc xem
xét, giải quyết các thủ tục hồ sơ bị kéo dài (nhiều khi mất cơ hội đầu tư) dẫn
đến doanh nghiệp không còn mặn mà với các chính sách ưu đãi trong khi nhu cầu về
vốn của doanh nghiệp lại rất lớn.
+ Về
phía doanh nghiệp: Do xuất phát điểm, hầu hết các doanh nghiệp đang có nhu cầu
về vốn đều ở loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ,… Có rất ít
doanh nghiệp tự đánh giá năng lực công nghệ phục vụ cho đổi mới và hoạch định chiến
lược kinh doanh của đơn vị một cách bền vững; hầu hết thiếu nhân lực quản trị
nên việc xây dựng các đề án phát triển cho doanh nghiệp mình chưa được quan tâm
đúng mức, thiếu cơ sở khoa học, tiềm ẩn rất nhiều rủi do dẫn đến sự quan ngại của
các cơ quan quản lý. Cũng do thiếu nhân lực quản trị nên việc diễn giải các nội
dung trong dự án đầu tư thiếu tính thuyết phục, thiếu sự tính toán đầy đủ nên
tính khả thi chưa cao.
Trên
đây là một vài ý kiến xin được nêu để trao đổi và mong muốn cơ quan chủ trì
nghiên cứu để có tổng hợp đề xuất tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất từ cả cơ
quan quản lý và doanh nghiệp nhằm đạt được kỳ vọng cho sự phát triển doanh nghiệp
nói chung, doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Đây chính là
yếu tố cốt lõi cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Bàn
đến giải pháp về vốn, nhất là nguồn vốn hỗ trợ từ nhà nước cần phải được xem
xét tổng thể các vấn đề sau:
Thứ nhất: Cơ
quan quản lý nhà nước cần rà soát lại chính sách, phân định rõ nguồn dùng cho hỗ
trợ, tài trợ; nguồn dùng cho vay, bảo lãnh vốn vay…Xác lập nguồn vốn vay chuyển
sang hoạt động theo hình thức tín dụng;
Thứ hai: Các
Quỹ cho vay cần phối hợp với các tổ chức tín dụng để hình thành hồ sơ vay cho
phù hợp với mục tiêu, tiêu chí của Quỹ đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiếp cận được.
Thứ ba: Các
doanh nghiệp thực sự quan tâm cần tự đánh giá hoặc thuê chuyên gia tổ chức đánh
giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp để hoạch định và chuẩn bị nguồn lực đầu
tư theo phương án khả thi nhất; cần có cán bộ có năng lực, có khả năng nghiên cứu
tiếp cận với các chính sách để hoàn thiện hồ sơ đáp ứng theo yêu cầu./.
(Tham luận tại Diễn đàn “Giải pháp về vốn
phát triển công nghiệp hỗ trợ do Viện Chính sách chiến lược – Bộ Công thương tổ
chức ngày 31/5/2016)