Thứ năm, 26/12/2024 10:48 GMT+7

Xây dựng cơ sở hạ tầng KH&CN hiện đại: Một nhu cầu cấp bách của Việt Nam

Gần 25 năm sau khi đề án Xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm được chính phủ phê duyệt vào năm 2000, cho đến nay ngành KH&CN chưa có thêm một đề án đầu tư về cơ sở hạ tầng KH&CN hiện đại ở quy mô quốc gia, trong khi đó là một trong những yếu tố nền tảng để KH&CN Việt Nam có thể tạo ra những đột phá trong tương lai.
Năm 2022, khi tới Ủy ban Năng lượng nguyên tử Jordan (JAEC), đoàn công tác của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) đã được mời thị sát cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Có lẽ không phải nói nhiều về một sự dĩ nhiên của một ngành nghiên cứu đạt tới trình độ thế giới, đó là hệ thống cơ sở vật chất hoàn bị và vô cùng hiện đại. Tuy nhiên, điều khiến các cán bộ Việt Nam cảm thấy ấn tượng nhất là ở một phòng thí nghiệm của JAEC có treo một bức ảnh đen trắng chụp vài dụng cụ đơn giản đặc trưng của phòng thí nghiệm đi kèm dòng chữ giản dị “Without laboratories… men of science are soldiers without arms” (Không có phòng thí nghiệm, nhà khoa học là những chiến binh không vũ khí).
 
Việt Nam, một quốc gia vẫn còn đang hội nhập và hạn hẹp về nguồn lực đầu tư cho KH&CN, có quyền mơ ước về một hệ thống cơ sở vật chất tương đối hiện đại như vậy không?
 
Thế khó của hệ thống PTN trọng điểm quốc gia
 
Năm 2000, Chính phủ thông qua đề án “Xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm” với hai mục tiêu chính là tăng cường một bước cơ bản về cơ sở vật chất kỹ thuật cho KH&CN nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, thúc đẩy các thành tựu vào sản xuất và đời sống; xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm thuộc những lĩnh vực KH&CN ưu tiên và trang bị máy móc thiết bị đồng bộ, hiện đại đạt trình độ khu vực, một số đạt trình độ quốc tế, với một đội ngũ chuyên gia giỏi. Đây là một trong những đề án đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp quốc gia lớn thứ hai trong lịch sử KH&CN Việt Nam, sau thành công của công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt vào năm 1982-1984 (do lò phản ứng TRIGA-MARK III của Mỹ đã ngừng hoạt động, tháo dỡ nhiên liệu và thiết bị hư hỏng vào năm 1975).
 
Ở Việt Nam, việc thực hiện đề tài, dự án lại theo những giai đoạn ngắn khoảng 5 năm, kinh phí thực hiện đề tài thấp và thiết bị lạc hậu khó thay mới. Đó là lý do giải thích vì sao từ các PTN trọng điểm khó có thể có được những nghiên cứu tầm cỡ quốc tế.
 
Có thể thấy ngay từ đầu, đề án này đã hướng tới việc tạo dựng một hệ thống cơ sở vật chất khá hoàn bị nhằm thúc đẩy những công nghệ mới, giải pháp mới cho các ngành ưu tiên của đất nước, đồng thời lan tỏa các giá trị cốt lõi của KH&CN trong đời sống xã hội. Hầu hết các phòng thí nghiệm trọng điểm đều được trang bị các máy móc, thiết bị khá hiện đại so với các phòng thí nghiệm khác, đồng thời chọn được những nhà khoa học có uy tín vào các vị trí dẫn dắt.
 
Những tưởng tất cả những đầu tư ban đầu như vậy là bệ phóng cho những nghiên cứu đột phá để xứng với danh hiệu “trọng điểm” thì thực tế đã cho thấy, mặc dù cũng gặt hái được một số kết quả đáng mừng như số lượng công trình thực hiện, số lượng và chất lượng bài báo quốc tế của các phòng thí nghiệm trọng điểm có phần nhỉnh hơn so với các phòng thí nghiệm khác song vẫn chưa tạo ra kết quả đột phá như các nhà quản lý mong đợi. Vậy đâu là nguyên nhân?
 
Sau gần 10 năm, chúng ta mới có câu trả lời. Trong buổi làm việc với đoàn công tác liên bộ gồm Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ KH&ĐT, Bộ NN&PTNT vào tháng 10/2013, TS. Nguyễn Văn Đồng, Phó Giám đốc PTN Công nghệ tế bào thực vật chia sẻ những khó khăn của đội ngũ những người làm khoa học ở đây: Qua hơn 12 năm đầu tư và đưa vào sử dụng, hầu hết các thiết bị máy móc của phòng thí nghiệm đã xuống cấp, lỗi thời và hết thời gian sử dụng. Bên cạnh cái khó về cơ sở vật chất, họ còn vướng một bài toán khác là thiếu hẳn cơ chế đặc thù cho việc tuyển dụng, đãi ngộ các cán bộ của PTN, đồng thời thiếu cơ chế để cán bộ trong và ngoài nước đến làm việc tại đây...
TS. Vũ Quang Hiếu trong phòng thí nghiệm Ứng dụng nano vàng trong chẩn đoán và điều trị ung thư.
 
Nỗi niềm của TS. Nguyễn Văn Đồng cũng là suy nghĩ chung của lãnh đạo các PTN trọng điểm khác. Trên tạp chí Khoa học Việt Nam trực tuyến vào năm 2012, trong niềm vui 10 năm của một nơi gắn liền với phát triển và ứng dụng công nghệ như PTN Công nghệ hàn và xử lý bề mặt, TS. Hoàng Văn Châu, Giám đốc PTN, viết về những điều xảy ra trên thực tế “Trong quá trình triển khai thực hiện các đề tài, công trình, thiết bị được đầu tư chủ yếu cho nghiên cứu chưa đáp ứng được các yêu cầu về công suất, quy mô làm việc phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh… Một bộ phận cán bộ chưa tập trung cao cho nghiên cứu, có lúc, có nơi còn chú trọng vào hoạt động sản xuất kinh doanh để mưu sinh. Việc thu hút nhân tài và tuyển dụng cán bộ nghiên cứu còn khó khăn, nguyên nhân do mức chi thường xuyên đảm bảo lương cơ bản theo hệ số cho cán bộ hiện nay chưa đáp ứng và hấp dẫn với các kỹ sư có năng lực mới ra trường và cán bộ chuyên môn giỏi từ đơn vị khác”.
 
Khi tiến hành đầu tư hệ thống thiết bị, máy móc cho các PTN trọng điểm, các nhà quản lý đều nghĩ đến việc khai thác nó thật hiệu quả mà không nghĩ rằng, theo thời gian, ngay cả cái hiện đại cũng sẽ xuống cấp hoặc cần thay mới. Trên Truyền hình Quốc hội năm 2024, TS. Nguyễn Quang Minh của PTN Công nghệ lọc, hóa dầu đã đưa ra một nhận xét mà anh rút ra sau 10 năm làm việc ở đây “Càng ngày, việc nghiên cứu và phát triển công nghệ càng gặp nhiều trắc trở, khó khăn vì các thiết bị có được từ việc đầu tư lớn kể từ ngày thành lập tới nay ít được thay mới”.
 
Trên Truyền hình Quốc hội, TS. Đỗ Tiến Phát, Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật (Viện Công nghệ sinh học) cho biết “hầu hết thiết bị của PTN Công nghệ gene, thiết bị ly tâm và một số thiết bị khác, ngay cả bình nước cất, cũng có tuổi thọ hơn 20 năm. Vì thế khả năng sử dụng của các thiết bị này đều rất kém. Khi hỏng hóc, các nhà khoa học của viện tìm mọi cách sửa chữa, nâng cấp để phục vụ các dự án nghiên cứu, tuy nhiên tốc độ và chất lượng các nghiên cứu đều giảm”.
Để khai thác, vận hành một cơ sở hạ tầng tiên tiến, hiện đại, cần sáu điều: 1. Người phụ trách; 2. Nhà khoa học đòi hỏi thiết bị, không phải thiết bị đòi hỏi nhà khoa học; 3. Làm việc cùng nhau, chia sẻ thiết bị bất cứ khi nào có thể; 4. Lập kế hoạch dự án một cách thực tế, dự trù kinh phí cho việc vận hành và bảo trì; 5. Theo dõi các nhà khoa học trẻ đang được đào tạo ở nước ngoài; 6. Đánh giá sử dụng tài chính và nhân lực một cách minh bạch và chặt chẽ.
Phát biểu của GS. Pierre Darriulat trên Tia sáng năm 2018
 
Những bài học kinh nghiệm quan trọng
 
Dù chưa thật thành công như mong đợi nhưng câu chuyện của hệ thống PTN trọng điểm quốc gia đã gợi mở rất nhiều bài học kinh nghiệm về đầu tư và quản lý vận hành những cơ sở vật chất KH&CN tiên tiến. Đây sẽ là những kinh nghiệm nằm lòng để trong tương lai gần, Việt Nam có thể đầu tư và điều phối hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất quan trọng một cách thành công, bởi muốn làm khoa học đỉnh cao và hướng tới mở rộng hợp tác nhiều bên mà doanh nghiệp là một phần quan trọng, cùng làm ra những công nghệ mới, những giải pháp mới không thể không có cơ sở vật chất KH&CN tiên tiến.
 
Có thể thấy, một trong những bài học quan trọng của hệ thống PTN trọng điểm là sự đầu tư tiếp tục theo thời gian. Năm 2017, PGS. TS Chu Hoàng Hà, Giám đốc PTN trọng điểm Công nghệ gene, được báo Nhân dân dẫn lời: những đầu tư trang thiết bị cho một PTN để cho nó được vận hành rất đáng quý nhưng chưa phù hợp với tính chất của lĩnh vực nghiên cứu, đặc biệt với nghiên cứu về gene hay nghiên cứu trên sinh thể sống thường cần thời gian dài (từ 10 đến 15 năm) và máy móc hiện đại, cập nhật. Trong khi đó ở Việt Nam, việc thực hiện đề tài, dự án lại theo những giai đoạn ngắn khoảng 5 năm, kinh phí thực hiện đề tài thấp và thiết bị lạc hậu khó thay mới. Đó là lý do giải thích vì sao từ các PTN trọng điểm khó có thể có được những nghiên cứu tầm cỡ quốc tế.
 
Mặt khác, khi tiến hành đầu tư một cơ sở hạ tầng KH&CN lớn, các nhà quản lý chưa bao quát được hết những điều cần thiết để vận hành, đó là một khoản chi phí “running cost” cho máy móc có thể hoạt động khi chờ đề tài khoa học và nguồn chi phí sửa chữa khi thiết bị chẳng may bị hỏng. Việc chưa phân định được nguồn kinh phí cho hai khoản cần thiết này khiến các PTN rơi vào thế lúng túng trong quá trình hoạt động. “Thiết bị đắt tiền mua về có thể không ai dùng cũng không sao, làm ra sản phẩm tốt cũng không ai thấy vấn đề gì nhưng chỉ cần nó bị hỏng thôi là rất nhiều chuyện bi hài xảy ra, không nơi nào xuất kinh phí cho sửa chữa”, một nhà nghiên cứu dấu tên tại ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết.
 
Về việc thay thế và sửa chữa các thiết bị của PTN trọng điểm, GS. Vũ Thị Thu Hà, Giám đốc PTN Công nghệ Lọc hóa dầu, cũng chia sẻ trên Tia Sáng năm 2016, “nhu cầu bảo trì và thay mới thiết bị rất lớn – chẳng hạn chúng tôi lâu nay vẫn thường phải tự bỏ tiền để thay mới hàng loạt linh kiện (mỗi linh kiện tốn kém hàng trăm triệu đồng). PTN trọng điểm nào không có nguồn kinh phí để bảo trì và thay mới thì sau 8 đến 10 năm, các trang thiết bị đó sẽ hầu như không thể sử dụng một cách hữu hiệu được nữa”.
 
Lý do này dẫn đến một hệ lụy phổ biến khác là tình trạng “cát cứ thiết bị”. “Không phải phòng thí nghiệm nào cũng mở cho người ở nơi khác vào”, nhà nghiên cứu ở Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam cho biết. “Nói chung, phòng thí nghiệm nào cũng sợ thiết bị do mình quản lý bị hỏng”. Vì thế, mục tiêu chia sẻ nguồn tài nguyên trong nghiên cứu, giúp tận dụng tối đa khả năng của thiết bị đắt tiền mà vẫn giúp nhà nước tiết kiệm nguồn lực đầu tư của hệ thống các PTN trọng điểm đã không đạt được. Trong nhiều lần chia sẻ với báo chí khi còn đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Bộ KH&CN, TS. Nguyễn Quân cũng xác nhận, các cơ quan chủ trì các PTN trọng điểm thường có quan điểm đây là cơ sở của đơn vị mình và không để các PTN này hoạt động theo phương châm phòng thí nghiệm mở. Điều này khiến người cần nghiên cứu không vào được, không đáp ứng nhu cầu của các nhà khoa học.
 
Có lẽ, còn có nhiều nguyên nhân khác dẫn đến sự hoạt động thiếu hiệu quả của các PTN trọng điểm. Tại một cuộc trả lời trực tuyến vào tháng 11/2014 trên Dân trí, TS. Nguyễn Quân từng giải thích “Đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm của chúng ta còn thấp và cơ chế đầu tư còn vướng mắc”. Cụ thể, ông phân tích “Đầu tiên, phải kể đến việc quá trình đầu tư PTN trọng điểm quốc gia bị kéo dài, mặc dù [kinh phí đầu tư cho] một phòng khoảng từ 3-5 triệu USD. Quá trình này lại không có sự tham gia của Bộ KH&CN nên nhiều trang thiết bị lạc hậu, thậm chí các thiết bị cũ và mới không tương thích, phù hợp trong nghiên cứu” trong khi “Bộ KH&CN phải trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về danh mục các dự án đầu tư các PTN trọng điểm nhưng đến khi được phê duyệt, Bộ KH&CN lại không được tham gia vào quá trình đầu tư mà do bộ chủ quản cộng với Bộ KH&ĐT đầu tư, khi nào đầu tư xong thì bàn giao cho bộ chủ quản”. Khi ở tình thế “ván đã đóng thuyền” rồi, “Bộ KH&CN mới [được] trở lại cùng bộ chủ quản tổ chức vận hành PTN trọng điểm đó. Sau hơn 10 năm triển khai đầu tư các PTN trọng điểm, năm rồi chúng tôi tổ chức kiểm tra mới thấy: đến lúc đầu tư xong hầu hết các PTN trọng điểm thì trang thiết bị đã lạc hậu mất rồi”, TS. Nguyễn Quân lý giải.
 
“Vì lý do này, các đơn vị có PTN trọng điểm muốn nghiên cứu lại phải đi mua sắm, làm lại phòng thí nghiệm, dẫn đến tình trạng lãng phí”, ông chỉ ra một hệ quả nhãn tiền.
 
Để xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng KH&CN hiệu quả?
 
Một quốc gia không thể không có một cơ sở hạ tầng KH&CN hiện đại nhưng nếu có thì phải khai thác và vận hành nó hoạt động một cách hiệu quả - đó là điều nằm lòng của ngành khoa học Việt Nam. “Tôi luôn mơ ước có một nơi có trang thiết bị sẵn để yên tâm dùng lúc nào thì dùng nhưng ở đó thì năng lực tài chính, quản trị, quản lý trang thiết bị cũng phải thật sự chuyên nghiệp”, PGS. TS Nguyễn Quốc Khánh, Hiệu phó ĐH Phenikaa chia sẻ trong một tọa đàm về chia sẻ PTN do ĐHQGHN tổ chức vào năm 2022.
 
Vậy làm thế nào để mọi việc đi đúng đường? Năm 2018, GS. Pierre Darriulat, cựu Giám đốc Trung tâm hạt nhân châu Âu (CERN), nơi quản lý và vận hành nhiều thiết bị tiên tiến hàng đầu thế giới (state of the art), đã chia sẻ sáu điều quan trọng trên Tia Sáng: 1. Người phụ trách; 2. Nhà khoa học đòi hỏi thiết bị, không phải thiết bị đòi hỏi nhà khoa học; 3. Làm việc cùng nhau, chia sẻ thiết bị bất cứ khi nào có thể; 4. Lập kế hoạch dự án một cách thực tế, dự trù kinh phí cho việc vận hành và bảo trì; 5. Theo dõi các nhà khoa học trẻ đang được đào tạo ở nước ngoài; 6. Đánh giá sử dụng tài chính và nhân lực một cách minh bạch và chặt chẽ. Ông cũng chỉ ra vấn đề cần phải tránh “Người ta có xu hướng bỏ qua tính toán chi phí vận hành và bảo trì, vốn rất quan trọng đối với một thiết bị. Kết quả là, khi dự án được phê duyệt, nó đã được quản lý không đúng cách ngay từ đầu [không dự trù việc bảo trì, bảo dưỡng], đồng nghĩa với việc lãng phí lớn về nguồn lực. Dự án sẽ bị chậm trễ do thiếu kinh phí hoạt động. Ngoài những mất mát trực tiếp, nó còn làm giảm động lực của đội ngũ nhân viên, tạo nên một bầu không khí ngờ vực đối với cái tâm của nhà quản lý trong việc lập kế hoạch”.
 
Đây là lý do mà trong tọa đàm về chia sẻ PTN, PGS. Vũ Đức Lợi, Giám đốc VKIST, phản ánh thực trạng và đề xuất cách giải quyết “Vấn đề running cost khiến mọi nơi đều vướng. Tôi thấy với các đơn vị làm dịch vụ thì họ có chi phí running cost nên họ bảo trì rất tốt còn các đơn vị công lại không có. Bởi xin được máy đã là khó lắm rồi, rồi còn vận hành nữa, rất tốn kém. Chúng ta cần nhìn nhận lại vấn đề để trong tương lai làm hiệu quả hơn. Chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm quốc tế, họ làm trước chúng ta bao nhiêu năm rồi. Hiện chúng ta mới chỉ có tiền mua máy mà không quan tâm đến việc đào tạo người sử dụng”.
 
Những cơ chế để một cơ sở hạ tầng đỉnh cao như PTN trọng điểm hoạt động hiệu quả là điều nhà khoa học nào cũng mong chờ. “Thông qua Quỹ NAFOSTED, hoặc các chương trình của nhà nước, chúng ta có thể cung cấp cho các phòng thí nghiệm trọng điểm những gói tài trợ dài hạn – theo tôi, khung thời gian có thể lên tới tám năm – trong đó hằng năm đều có những mục tiêu, kế hoạch cụ thể mà đơn vị được tài trợ phải hoàn thành. Hằng năm Quỹ sẽ có vai trò giám sát, đảm bảo các phòng thí nghiệm được tài trợ thực hiện đúng theo những mục tiêu đã cam kết”, GS. Vũ Thị Thu Hà từng đề xuất.
 
Với một cơ chế đầu tư phù hợp, một cơ chế vận hành thỏa đáng, một cơ chế khai thác mở mà nói như PGS. TS Vũ Đức Lợi “Thiết bị càng nhiều người sử dụng thì hiệu quả càng cao, càng đo nhiều mẫu thì hiệu quả càng lớn”.
 
Hiện tại, Dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân Quốc gia (CNEST), một cơ sở hạ tầng nghiên cứu liên ngành hiện đại tầm cỡ quốc tế, đang được lên kế hoạch, với sự tham gia của Viện Năng lượng Nguyên tử VN (VINATOM), Rosatom và Viện Liên hợp hạt nhân Dubna (JINR). Sau 40 năm, một lần nữa việc tạo dựng một cơ sở nghiên cứu đỉnh cao lại được đặt vào tay ngành hạt nhân. Việc sở hữu một nơi như vậy sẽ mở rộng cơ hội R&D về khoa học vật liệu, y học hạt nhân, hóa phóng xạ, nông nghiệp… giữa Việt Nam và các nhà khoa học quốc tế. Đó cũng là hy vọng về việc có một mô hình điểm, một cách làm đúng để các nhà quản lý và nhà khoa học có thể học hỏi, qua đó gợi mở được những cơ hội thiết kế và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ một cách hiệu quả hơn. Đó cũng là nền tảng để KH&CN Việt Nam có thể có được những đột phá trong tương lai.
Từ quyết định của chính phủ, 16 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia được triển khai xây dựng và đầu tư từ năm 2000 đến 2010, chia làm hai giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010, bao phủ hầu khắp các lĩnh vực quan trọng: PTN An toàn thông tin, PTN Công nghệ mạng và đa phương tiện, PTN Mạch vi điện tử chuyên dụng (ngành CNTT), PTN Công nghệ gene, PTN Công nghệ enzym và protein, PTN Công nghệ vaccine và các chế phẩm y sinh học, PTN Công nghệ tế bào động vật, PTN Công nghệ tế bào thực vật (công nghệ sinh học), PTN Vật liệu polyme và compozit, PTN Vật liệu và linh kiện điện tử (công nghệ vật liệu); PTN Công nghệ hàn và xử lý bề mặt, PTN Điều khiển số và kỹ thuật hệ thống (công nghệ chế tạo máy và tự động hóa); PTN Công nghệ lọc, hóa dầu, PTN Điện cao áp (năng lượng), PTN Chuẩn đo lường, PTN Động lực học sông, biển (lĩnh vực khác).
 
Các PTN này được đặt tại các trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu của những lĩnh vực quan trọng này, ví dụ PTN Công nghệ enzym và protein đặt tại ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN), PTN Công nghệ tế bào động vật tại Viện Chăn nuôi, PTN Công nghệ tế bào thực vật đặt tại Viện Di truyền nông nghiệp (Bộ NN&PTNN), PTN Công nghệ gene đặt tại Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), PTN Công nghệ lọc, hóa dầu tại Viện Hóa chất (Tập đoàn Hóa chất Việt Nam) …
 

Nguồn: khoahocphattrien.vn

Lượt xem: 121

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)