Viện Nghiên cứu và Phát triển Viettel
KH&CN: “Cứu cánh” cho nền kinh tế
“KH&CN là vấn đề sống còn của quốc gia, điều này không hẳn vì tôi là Bộ trưởng mà bao biện, cổ xúy cho vai trò của KH&CN, hoặc đề cao nó một cách quá mức, mà thực sự đây là vấn đề cốt tử, là bài học kinh nghiệm xương máu của tất cả các quốc gia nghèo khó đi lên từ đống tro tàn của chiến tranh”, Bộ trưởng Nguyễn Quân đã bắt đầu câu chuyện với phóng viên trong suốt hai tiếng đồng hồ như vậy.
Ông dẫn giải, từ Tổng thống Hàn Quốc, Thủ tướng Nhật Bản, và ngay cả ngài Lý Quang Diệu, cựu Tổng thống Singapore đều khẳng định như thế. Đấy là những quốc gia nghèo hơn chúng ta về tài nguyên thiên nhiên, nhưng họ đã đứng dậy từ đống tro tàn và chỉ sau 50, 60 năm họ đã trở thành cường quốc.
Với nhận thức như vậy và nhìn lại quá trình phát triển đất nước, chúng ta tự hào trong 27 năm đổi mới, kể từ năm 1986, chúng ta đã có 27 năm tăng trưởng rất ngoạn mục, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7-8% một năm. Tuy nhiên, đi vào bản chất trong tăng trưởng những năm đó, chủ yếu dựa trên 3 yếu tố: tháo gỡ những cơ chế lạc hậu của chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, nhân công giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên.
Nhưng đến nay cả 3 yếu tố này đã không còn. Khi nước ta trở thành thành viên của WTO, để được các quốc gia công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, các cơ chế cũ tiếp tục phải thay đổi, không còn bao cấp, kể cả Nhà nước không thể bao cấp cho doanh nghiệp (DN) Nhà nước.
Nhân công giá rẻ cũng không còn là lợi thế, bởi vì chúng ta đã vượt qua ngưỡng của một nước có thu nhập trung bình và gần đây các DN đã đổ xô đến Myanmar bởi nhân công giá rẻ của Myanmar đang hấp dẫn hơn rất nhiều. Tài nguyên khoáng sản đang cạn kiệt, Chính phủ đã phải ra lệnh cấm xuất khẩu các nguyên liệu thô như: Titan, boxit, và các loại quặng kim loại khác, than bắt đầu phải nhập khẩu từ Indonesia…
Kinh nghiệm của tất cả các quốc gia, ngay cả các chính khách khi đến thăm Việt Nam đều nói rằng đã đến lúc chúng ta phải đặt KH&CN lên cùng với giáo dục đào tạo, là cứu cánh cho nền kinh tế. Điều này đã được Đảng và Nhà nước thể hiện qua Nghị quyết Trung ương 2 khóa 8, lần đầu KH&CN và giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu.
Hiện chúng ta đang sửa đổi Hiến pháp và cũng đi theo hướng coi KH&CN và giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, đây là tín hiệu đáng mừng, thể hiện nhận thức tiến bộ của Đảng và Nhà nước đối với vai trò của KH&CN.
Ba cái “chưa”…
Nhưng để KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu là con đường dài và gian nan, vì số lượng những người trong xã hội quan tâm thực sự không nhiều. Người dân cũng như cộng đồng DN hầu như không quan tâm đầu tư cho phát triển KH&CN, chủ yếu dựa vào Nhà nước.
Bản thân tiềm lực nội tại KH&CN cũng còn rất yếu kém, đội ngũ cán bộ KH&CN đông về số lượng với 3,6 triệu người tốt nghiệp đại học và cao đẳng, với 50.000 người làm nghiên cứu chuyên nghiệp trong các viện nghiên cứu, với hơn 36.000 thạc sỹ, 18.000 tiến sỹ, hơn 10.000 GS, PGS, nhưng chất lượng chưa phải là cao.
Việt Nam gần như không có công bố quốc tế, ít đến mức chúng ta coi gần như không có, mỗi năm chỉ có 1 hoặc 2 sáng chế được đăng ký tại Hoa Kỳ. Nhiều nhà khoa học cũng nói rằng công bố quốc tế của Việt Nam trên các tạp chí khoa học nổi tiếng thế giới không bằng một trường đại học lớn của một nước láng giềng.
Chúng ta cũng chưa có nhà khoa học nào được giải Nobel, chỉ có duy nhất một sự kiện vang dội đó là GS. Ngô Bảo Châu lần đầu tiên được giải Fields, nhưng một trường đại học Hoa Kỳ có khi có hàng chục người được giải Nobel và ngay cả các quốc gia lân cận cũng đã bắt đầu lác đác có những khoa học được giải về Nobel, chưa kể những giải thưởng quốc tế lớn khác.
Và Việt Nam chưa có sản phẩm nào mà thương hiệu của nó được thế giới biết đến, để chỉ cần nhìn vào hoặc nghe tên người ta biết ngay đó là sản phẩm của Việt Nam. Ví dụ, nói Honda là của Nhật Bản, thậm chí nói nước mắm Phú Quốc, người ta cứ tưởng của Thái Lan nhưng không biết đấy là của Việt Nam…
Nói như vậy để thấy đội ngũ cán bộ khoa học có thể đông về số lượng nhưng thành tựu thì còn rất khiêm tốn so với các nước. Việt Nam phải phấn đấu rất kiên cường mới đuổi kịp được các nước top trên trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore.
KH&CN đang phát triển ở mức rất khiêm tốn, trong khi đòi hỏi của nền kinh tế thì cao hơn rất nhiều, và đến bây giờ có thể nói nếu không phát triển KH&CN, chúng ta không tìm thấy con đường nào khác để phát triển đất nước “không thể trông cậy vào tài nguyên thiên nhiên, ngay cả những nước giàu tài nguyên như các nước Trung Đông có nhiều dầu mỏ cũng không trở thành cường quốc được”, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh.
Đầu tư cho khoa học: “Một vốn, bốn lời”
Theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, làm thế nào để KH&CN phát triển là một bài toán khó Việt Nam đã sống quá lâu trong thời bao cấp, dựa nhiều vào đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển KH&CN.
Từ năm 2000, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, dành 2% tổng chi Ngân sách nhà nước hàng năm (tương đương khoảng 0,5-0,6% GDP) cho KH&CN. Đây là tỷ lệ rất cao so với thế giới, Nhật Bản chỉ có 0,36% GDP quốc gia từ ngân sách dành cho KH&CN, Hoa Kỳ 0,4%, Hàn Quốc: 0,45% GDP…
Nhưng đứng ở góc độ tổng đầu tư của xã hội cho KH&CN, đây lại là con số rất thấp, vì Việt Nam không huy động được sự đầu tư của xã hội, đặc biệt là của DN cho KH&CN. Theo thống kê, thì ngân sách nhà nước đầu tư xấp xỉ mỗi năm khoảng 700 triệu USD cho KH&CN, thì xã hội chủ yếu là DN đầu tư khoảng 300 triệu USD.
Tổng đầu tư của chúng ta mới có được hơn 1 tỷ USD cho KH&CN, và nguồn đầu tư này là vô cùng bé nhỏ so với nhu cầu của xã hội đối với KH&CN, trong khi tại Nhật Bản có khoảng 150 tỷ USD dành cho KH&CN, Hàn Quốc hơn 50 tỷ USD…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỉ trọng đầu tư cho KH&CN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN càng lớn, ví dụ ở các nước phát triển như châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản tỉ trọng này thường là 3:1 đến 4:1. Trung Quốc cũng đã đạt được tỉ trọng 3:1 trong năm 2011. NSNN chỉ đảm bảo tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phục vụ lợi ích chung của quốc gia.
Nếu chúng ta coi KH&CN là yếu tố quyết định cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn sắp tới thì đầu tư cho nó phải tương xứng, nếu chỉ đầu tư bình quân 10 USD/đầu người dân cho khoa học, chắc chắn không bao giờ đuổi kịp các nước.
Cả nước hiện có gần 600.000 DN, nếu tất cả DN đều trích 10% lợi nhuận trước thuế của họ cho KH&CN, thì sẽ có ngay được nguồn khoảng 13.500 tỷ đồng và như vậy chúng ta đã có nguồn gấp đôi ngân sách nhà nước.
Gần đây, một số DN Việt Nam đã bắt đầu quan tâm tới KH&CN, đây là những tín hiệu đáng mừng. Ví dụ như Tập đoàn Viễn thông Viettel năm 2010 đã thành lập một viện nghiên cứu và họ đã dành 10% lợi nhuận trước thuế cho viện này, khoảng 120 triệu USD. Ngay lập tức Viettel đã có những sản phẩm khoa học rất quan trọng, đó là có thể tự chế tạo được tổng đài tương đương với các thiết bị nhập khẩu.
Năm 2011, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã hạ thủy thành công giàn khoan tự nâng 90m nước đầu tiên do Việt Nam chế tạo. Tổng vốn đầu tư hơn 180 triệu USD, nhưng chỉ trong vòng hơn 2 năm sau khi khởi công vào tháng 6/2009, chúng ta đã hoàn toàn làm chủ công nghệ thiết kế chế tạo dàn khoan này và lập tức trở thành một trong 10 quốc gia trên thế giới, và một trong 3 quốc gia ở châu Á đủ năng lực chế tạo dàn khoan tự nâng 90m nước và 120m nước.
“Nói như thế để thấy khi đầu tư cho công nghệ thì hiệu quả của nó đem lại cho đất nước rất lớn, tức là bỏ ra một đồng đầu tư cho khoa học, có thể có được 5, 6 đồng lợi nhuận. Trong bối cảnh khó khăn, DN nào quan tâm đến KH&CN có thể đứng vững. Và đã đến lúc KH&CN không chỉ được nhìn nhận trong Nghị quyết của Đảng mà cần phải đi sâu vào thực tế…”, Bộ trưởng Nguyễn Quân khẳng định.