Hiện nay trên các lưu vực miền Trung nói chung và sông Ba nói riêng hệ thống hồ chứa đang được xây dựng, với nhiệm vụ chủ yếu là phát điện, còn phòng chống lũ rất hạn chế. Những năm qua do thiếu sự phối hợp trong vận hành nên đã có những ảnh hưởng đến các địa phương trong lưu vực, đặc biệt là hạ lưu. Mặt khác nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, nhưng hồ chứa phát điện nên lượng nước xả trong mùa cạn bị suy giảm, làm gia tăng tình hình cạn kiệt. Do vậy việc xây dựng các quy trình vận hành liên hồ chứa cho cả mùa lũ và mùa kiệt là rất cấp thiết.
Qua 2 năm thực hiện (2009-2010), đề tài đã hoàn thành mục tiêu: Xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Ba; Xây dựng hệ thống công nghệ phục vụ điều hành liên hồ chứa lưu vực sông Ba; Đảm bảo ngăn lũ, chậm lũ và an toàn hồ chứa cũng như sử dụng hiệu quả nguồn nước cho các mục tiêu tổng hợp kinh tế- xã hội và môi trường của toàn hệ thống, đồng thời đáp ứng mục tiêu cụ thể của từng hồ chứa trong hệ thống.
Đề tài đã góp phần thu thập và xử lý một nguồn số liệu phong phú về địa hình, KTTV, hồ chứa, kinh tế- xã hội trên lưu vực sông Ba làm đầu vào cho bài toán vận hành liên hồ; áp dụng nhiều công cụ thống kê và mô hình toán hiện đại để xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa; sử dụng mô hình HEC-RESSIM để phân tích và đưa ra các quy tắc xả lũ bảo đảm an toàn hồ chứa, cắt lũ hợp lý để giảm lũ cho hạ lưu, làm cơ sở cho quy trình vận hành liên hồ chứa mùa lũ…
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cần có một dung tích phòng lũ cho từng hồ chứa bằng cách hạ thấp mực nước trước lũ. Không thể khống chế lũ tại Củng Sơn và Phú Lâm cho các con lũ có tần suất trên 10%, với Qmax³14.500 m3/s, tương đương lũ năm 2009. Chỉ có thể cắt giảm lũ cho hạ lưu sao cho hợp lý nhất; xây dựng và dự thảo 2 quy trình vận hành liên hồ mùa lũ và mùa kiệt: Quy trình vân hành mùa lũ giúp cho việc vân hành được thuận lợi, chủ động và bảo đảm giảm lũ hạ lưu, không tạo lũ nhân tạo và an toàn hồ chứa, mực nước hồ không vượt MNDBT.
Thiết lập một hệ thống công nghệ tương đối hoàn chỉnh và phần mềm tương ứng, phục vụ vận hành liên hồ nhanh chóng và hiệu quả.Tuy nhiên phần mềm còn chưa được tự đông hóa hoàn toàn do khó khăn trong việc liên kết dữ liệu của các mô hình; xây dựng một cơ sở dữ liệu tạo thuận lợi cho việc cập nhật, truy xuất các dữ liệu, bao gồm các báo cáo chuyên đề, các số liệu KTTV, lưu vực, hồ chứa, các bản đồ, ảnh có liên quan.
Đặc biệt, Đề tài đã góp phần đào tạo đại học (7 cử nhân) và sau đại học (2 NCS và 2 HVCH), tăng cường đạo tạo các chuyên gia trong và ngoài trường về vận hành liên hồ chứa. Tạo được một nguồn số liệu phong phú phục vụ đào tạo của Bộ môn và Khoa KT-TV-HDH, Trường ĐHKHTN-ĐHQGHN.