Cùng dự Hội nghị có các Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trần Lưu Quang; các thành viên Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ; lãnh đạo các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội; lãnh đạo Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam.
Hội nghị được kết nối trực tuyến tới trụ sở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và trụ sở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá việc triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 là một trong những "điểm sáng" của chuyển đổi số ở nước ta trong thời gian qua, được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, các thành viên Tổ công tác, các bộ, ngành, địa phương triển khai tương đối đồng bộ, tích cực, hiệu quả.
Việc triển khai Đề án 06 đã mang lại những kết quả cụ thể, thiết thực trong công tác quản lý, điều hành của các cấp, ngành, địa phương và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cung cấp tiện ích cho người dân, doanh nghiệp. Đề án 06 đã đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt trong thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, đổi mới phương thức quản trị quốc gia bằng kỹ thuật số, góp phần đẩy mạnh phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Thủ tướng nhấn mạnh: Trong quá trình xây dựng và triển khai Đề án 06 suốt hơn 02 năm qua, chúng ta đặc biệt ghi nhận và trân trọng cảm ơn những đóng góp tích cực, quan trọng của đồng chí Đại tướng Tô Lâm, nguyên Bộ trưởng Bộ Công an, Tổ trưởng Tổ công tác Đề án 06 và đồng chí Thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Tổ phó Tổ Công tác đối với Đề án 06; xin chúc mừng hai đồng chí được Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao trọng trách cao hơn.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các Phó Thủ tướng: Lê Minh Khái, Trần Lưu Quang chủ trì Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bên cạnh những kết quả nổi bật đã đạt được của Đề án 06, Thủ tướng nêu rõ, chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, "ngủ quên trong chiến thắng". Cách đây 01 năm, trong quá trình triển khai Đề án 06, chúng ta đã nhận diện nhiều khó khăn, thách thức và "điểm nghẽn" cần phải tập trung tháo gỡ ngay, liên quan đến pháp lý, hạ tầng công nghệ, dữ liệu, an ninh, an toàn, nguồn nhân lực...
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các giải pháp tháo gỡ (tại văn bản số 452/TTg-KSTT ngày 23/5/2023). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị yêu cầu thực hiện đồng bộ dữ liệu dân cư với dữ liệu thuế, ngân hàng, viễn thông... để định danh, xác thực cá nhân, tổ chức trên môi trường điện tử; phòng ngừa hành vi gian lận, trốn thuế trong hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, kinh doanh xuyên biên giới (Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/5/2023).
Với mục tiêu xuyên suốt là đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến nhanh chóng, thuận tiện, công khai, minh bạch; hình thành hệ sinh thái công dân số và cung cấp nhiều tiện ích cho người dân; phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; phòng chống tiêu cực, gian lận thương mại và thất thoát thuế, Hội nghị sẽ tập trung sơ kết 01 năm triển khai tháo gỡ các "điểm nghẽn" của Đề án 06 và thực hiện nhiệm vụ tại Chỉ thị số 18.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu phát biểu ngắn gọn, súc tích, đi thẳng vào các vấn đề:
Thứ nhất, đánh giá một cách thẳng thắn, khách quan, có số liệu minh chứng cụ thể về kết quả thực hiện nhiệm vụ được đề ra tại Văn bản số 452 và Chỉ thị số 18 với tinh thần khách quan, trung thực, "không tô hồng, không bôi đen"; nêu bật những việc đã làm được, những tồn tại, hạn chế, yếu kém, vướng mắc; đặc biệt cần phát hiện được nguyên nhân, phân tích rõ các bất cập thì mới xây dựng được giải pháp để hóa giải khó khăn, thách thức, bất cập, từ đó chuyển đổi trạng thái nhanh (như về thể chế, chính sách, đầu tư phát triển hạ tầng số, xây dựng nền tảng số, phát triển nhân lực số, bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin...).
Thứ hai, chia sẻ những kinh nghiệm hay, bài học quý, cách làm sáng tạo của các cấp, ngành và địa phương trong triển khai Đề án 06 và Chỉ thị số 18 (như phát triển hạ tầng số; cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành; kết nối chia sẻ thông tin, liên thông các hệ thống thông tin hình thành dữ liệu lớn, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử...).
Thứ ba, chỉ ra bài học kinh nghiệm, xác định rõ các quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong ngắn hạn và dài hạn; tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các chỉ đạo mới, bài bản và hiệu quả, bền vững hơn nữa.
08:13 ngày 10/06/2024
Trung tướng Nguyễn Văn Long, Thứ trưởng Bộ Công an trình bày Báo cáo kết quả 01 năm triển khai Công văn số 452/TTg-KSTT, ngày 23/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo giải quyết các "điểm nghẽn" về Đề án 06 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Văn Long trình bày Báo cáo kết quả 01 năm triển khai Công văn số 452/TTg-KSTT, ngày 23/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo giải quyết các "điểm nghẽn" về Đề án 06.
08:33 ngày 10/06/2024
Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc báo cáo kết quả 1 năm triển khai Chỉ thị 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo kết quả 1 năm triển khai Chỉ thị 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc cho biết: Phát triển thương mại điện tử là một xu thế tất yếu trong cuộc cách mạng 4.0. Hiện nay, thương mai điện tử của Việt Nam, theo đánh giá của Bộ Công Thương, là 20,5 tỷ USD và sẽ đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2025. Và Việt Nam được xác định là quốc gia có tăng trưởng về thương mại điện tử nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Từ đó đặt ra yêu cầu về quản lý thuế, quản lý về chất lượng hàng hóa, chống lừa đảo. Thực hiện Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh và chia sẻ dữ liệu thương mại điện tử, chống thất thu thuế. Đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 56 ngày 26/6/2024.
Có 4 nội dung giao cho Bộ Tài chính đã được thực hiện quyết liệt và đạt những kết quả tích cực.
Về hoàn thiện pháp lý, hiện nay Bộ Tài chính đang thực hiện việc định danh và xác thực điện tử; thực hiện các nghị định 72 năm 2013, Nghị định 59 và rà soát lại các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử.
Theo báo cáo của Bộ Công an, có 3 việc Bộ Tài chính đã hoàn thành. Thứ nhất là nghị định về chi thường xuyên cho các dự án đã có, hiện nay đã trình và đang chờ Chính phủ ban hành. Thứ hai, nghị định về giá dịch vụ công đã hoàn thành, đang trình. Thứ ba là vấn đề phân bổ vốn cho các bộ, ngành, chúng tôi đã phân bổ vốn cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Thủ tướng cũng đã có quyết định. Còn các bộ, ngành khác theo đăng ký từ đầu năm. Như vậy, chưa phân bổ, chưa báo cáo Thường vụ Quốc hội vì phải chờ Nghị định về vấn đề chi thường xuyên.
Tuy nhiên có 2 vấn đề. Thứ nhất, một số địa phương chưa xây dựng kế hoạch chuyển đổi số và thực hiện về thương mại điện tử, phát triển công nghệ thông tin. Về phân cấp quản lý quản lý ngân sách, phải dùng ngân sách địa phương nhưng có những địa phương ngân sách yếu, Nhà nước phải hỗ trợ. Một số bộ, ngành cũng chưa có đăng ký từ đầu năm, nên cơ sở phân bổ rất khó. Sau khi các bộ, ngành có đề xuất, chúng tôi đề xuất Thủ tướng có thể dùng 1 phần dự phòng ngân sách để cấp cho phần này.
Về xây dựng và chia sẻ dữ liệu, hiện nay việc chia sẻ dữ liệu thuế, mã số thuế định danh theo căn cước công dân, đến 3/6/2024 đã đạt 97,57%. Đây là một sự tích cực của ngành tài chính bởi phải làm sạch dữ liệu, tập hợp dữ liệu, công nghệ phù hợp thì mới chia sẻ được.
Cùng với Bộ Công Thương đã chia sẻ dữ liệu về 929 sàn giao dịch thương mại điện tử tương ứng với 847 doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT (1 doanh nghiệp có thể sở hữu nhiều sàn) và 284 ứng dụng bán hàng trên mạng.
Cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông, đã thống nhất danh mục dữ liệu kết nối, chia sẻ với Bộ Tài chính (Cơ quan thuế) 130 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, quảng cáo, phát thanh, truyền hình.
Về kê khai, nộp thuế, Bộ Tài chính đã áp dụng định danh và xác thực điện tử đối với: cá nhân thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế; dịch vụ chữ ký số, viễn thông, tên miền; cá nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng; đang triển khai khuyến khích các sàn giao dịch TMĐT áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn.
Về kết quả quản lý thuế với thương mại điện tử tại Việt Nam, triển khai hóa đơn điện tử, máy khởi tạo tính tiền, Bộ Tài chính đã triển khai hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Đến nay đã có 61.009 cơ sở kinh doanh áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 464,8 triệu hóa đơn. Đối với việc áp dụng HĐĐT trong lĩnh vực kinh doanh vàng thì 100% các doanh nghiệp (9.419 DN) đã áp dụng hoá đơn điện tử có kết nối với cơ quan thuế theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó có 7.225 doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh vàng, bạc đã thực hiện áp dụng giải pháp HĐĐT khởi tạo từ MTT với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 1,34 triệu hóa đơn.
Theo số liệu quản lý thuế đến năm 2024 thì ngành thuế đang quản lý 123.759 người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực TMĐT, trong đó: cá nhân là 88.147, doanh nghiệp bán hàng hóa thông qua sàn giao dịch TMĐT là 35.131, doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT là 361, doanh nghiệp lớn hoạt động quảng cáo trên môi trường mạng là 24, nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN) không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam là 96.
Về số thu Ngân sách Nhà nước: Số liệu quản lý thuế trong 02 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh TMĐT năm 2022 là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 số thuế đã nộp là 97 nghìn tỷ đồng, 5 tháng đầu năm 2024 số thuế đã nộp trên 50 nghìn tỷ đồng. Lũy kế đến nay đã có 96 NCCNN đã kê khai, nộp thuế với số thuế là trên 15,6 nghìn tỷ đồng.
Bộ Tài chính đề xuất một số giải pháp:
Thứ nhất, kết nối dữ liệu, liên thông đồng bộ giữa các bộ, ngành, đặc biệt dữ liệu dân cư, dữ liệu thương mại điện tử, dữ liệu thanh toán qua ngân hàng… để đối chiếu một cách nhanh chóng yêu cầu kê khai nộp thuế, yêu cầu thanh tra kiểm tra.
Thứ hai, rà soát hoàn thiện pháp luật. Các bộ luật liên quan đến thương mại điện tử từ năm 2014, cho nên cần phải rà soát lại các nghị định, thông tư liên quan để sửa.
Thứ ba, xây dựng Cổng Thông tin đăng ký kê khai thuế của sàn thương mại điện tử trong nước, đôn đốc kê khai, chọn thanh tra, xử lý một số trường hợp trốn thuế.
Thứ tư là định danh và xác thực điện tử, đồng bộ liên thông dữ liệu thông tin hàng hóa.
Thứ năm, áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt càng nhiều thì quản lý và thu thuế càng cao.
Thứ sáu, sửa đổi Nghị định 117 năm 2018 về giữ bí mật và cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Thứ bảy, quản lý hoạt động thương mại điện tử qua mạng xã hội để thu thuế vì giờ người ta livestream, bán hàng qua mạng xã hội rất nhiều. Chúng ta phát triển mạng xã hội cùng với việc đối chiếu với ngân hàng thì sẽ thu được nguồn thuế rất lớn.
08:45 ngày 10/06/2024
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long: Về tình hình triển khai hạ tầng công nghệ thông tin, thứ nhất là về bảo đảm chất lượng, an toàn trên mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến cấp xã, thời gian qua Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Bộ Công an kết nối các trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào mạng TSLCD. Bộ Thông tin và Truyền thông đã định tuyến, liên thông kết nối giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP), qua đó tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước.
Mạng TSLCD đã duy trì và bảo đảm an toàn kết nối tới 63 tỉnh, thành phố và các ban, bộ, ngành Trung ương. Các kết nối được giám sát 24/7 về tình trạng hoạt động, bảo đảm kết nối hạ tầng phục vụ triển khai đề án 06 từ Trung ương đến xã.
Về vấn đề này, định hướng trong thời gian tới của Bộ là triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn cấp độ 5 cho mạng TSLCD, trong đó gồm triển khai các hệ thống quản lý giám sát mạng, giám sát an toàn thông tin, kiểm soát truy cập tập trung đến cấp xã nhằm bảo đảm an toàn thông tin cao nhất cho mạng, phục vụ hiệu quả triển khai đề án 06 tại các bộ, cơ quan, địa phương.
Về chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông bảo đảm chất lượng đường truyền internet cung cấp dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp, thời gian qua, chúng tôi đã hướng dẫn, đôn đốc các doanh nghiệp viễn thông triển khai cơ sở hạ tầng viễn thông băng rộng, hạ tầng số hiện đại với các công nghệ tiên tiến như 3G, 4G, thử nghiệm 5G. Bộ Thông tin và Truyền thông đã lần đầu tiên triển khai đấu giá thành công băng tần cho công nghệ 5G để các doanh nghiệp viễn thông cung cấp dịch vụ 5G trong năm nay.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông phổ cập hạ tầng băng rộng đến tận thôn, bản, xã phường trên cả nước. Đến nay 100% xã phường có hạ tầng băng rộng cáp quang, 100% xã, phường, thị trấn được phủ sóng di động 4G. Sóng di động 4G đã phủ tới 99,8% dân số cả nước, bảo đảm kết nối cho người dân và doanh nghiệp sử dụng, khai thác kết quả của Đề án 06.
Trong tháng 6 này, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ ban hành Kế hoạch nâng cao chất lượng mạng viễn thông di động, dự kiến đưa ra mục tiêu đến năm 2025 như sau: Tốc độ tải xuống 4G là 40 Mbps, tốc độ tải xuống 5G là 100 Mbps; 100% người dân thuộc các quận, thành phố được tiếp cận dịch vụ 5G; 100% các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, nhà ga, bến cảng, sân bay có sóng dịch vụ 5G.
Về đánh giá mức độ đáp ứng kỹ thuật triển khai đề án 06 của các bộ, cơ quan, địa phương, trọng tâm là an toàn thông tin, hiện nay chúng tôi đã ban hành Công văn số 708 ngày 2/3/2024 hướng dẫn nội dung về an toàn, an ninh mạng triển khai Đề án 06. Đến nay Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhận được báo cáo kết quả rà soát của 62/63 địa phương, 22/28 bộ, ban, ngành Trung ương, trong đó có 124 hệ thống thông tin đã kết nối hoặc có nhu cầu kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, với kết quả rà soát, đánh giá như sau: 96/124 hệ thống thông tin đáp ứng tất cả các tiêu chí; 28/124 hệ thống thông tin chưa đáp ứng tất cả các tiêu chí. Hiện tại còn 6 bộ, ngành và một địa phương chưa gửi báo cáo kết quả, rà soát và đánh giá.
Chúng tôi nhận thấy, thời gian qua, đã có một số hệ thống thông tin của bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp xảy ra sự cố mất an toàn thông tin mạng và đang có xu hướng gia tăng, mang tính chất phức tạp, vô cùng nghiêm trọng. Vì vậy, đề nghị các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp thuộc phạm vi triển khai Đề án 06 nói riêng và các hệ thống thông tin nói chung cần quan tâm, nghiêm túc thực hiện triển khai bảo đảm an toàn thông tin mạng ở mức độ cao nhất theo quy định. Đồng thời chúng tôi cũng đề nghị các bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm các nhiệm vụ tại Công điện số 33 của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông về bảo đảm an toàn thông tin của các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm về an toàn thông tin mạng trong năm 2024.
Đối với quy định về tiêu chuẩn kết nối và chia sẻ dữ liệu thì việc cát cứ, phân mảnh, thiếu nhất quán đang là vấn đề trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử nói chung và triển khai Đề án 06 nói riêng. Nhìn chung, đến thời điểm hiện nay, các tiêu chuẩn cơ bản về kỹ thuật, công nghệ đã được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành đầy đủ. Tuy nhiên, tiêu chuẩn về cấu trúc dữ liệu thuộc các lĩnh vực chuyên ngành do các bộ, ngành, địa phương chịu trách nhiệm ban hành đến nay vẫn còn hạn chế, chưa đầy đủ, chỉ một số loại dữ liệu cơ bản được xây dựng. Vì thế chúng tôi đề nghị các bộ, ngành quản lý lĩnh vực cần sớm xây dựng tiêu chuẩn đối với dữ liệu thuộc phạm vi ngành mình quản lý, sau đó phân định rõ dữ liệu nào Trung ương xây dựng, dữ liệu nào địa phương xây dựng theo các tiêu chuẩn thống nhất. Về việc triển khai dữ liệu, chúng tôi sẽ làm việc và hỗ trợ 1-2 bộ ngành, địa phương để hướng dẫn làm tốt việc xây dựng và khai thác dữ liệu. Từ đó đúc rút những kinh nghiệm, cách làm hay để phổ biến cho các Bộ, ngành và địa phương khác.
Hiện nay Bộ Thông tin và Truyền thông đang được giao chủ trì xây dựng 3 nghị định và 2 thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử.
Đối với 3 nghị định, trong đó Nghị định quy định về giao dịch điện tử trong cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử và Nghị định quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, thì thời hạn trình ban hành là vào tháng 5/2024. Hiện nay Bộ Tư pháp đã có báo cáo thẩm định và Bộ Thông tin và Truyền thông đang gấp rút hoàn thiện hồ sơ theo ý kiến thẩm định, trình Chính phủ ban hành trong tháng 6 này.
Đối với Nghị định quy định về cơ sở dữ liệu dùng chung, Bộ TT&TT đã hoàn thành tổng hợp, tiếp thu ý kiến đóng góp và đã gửi Bộ Tư pháp thẩm định. Dự kiến sẽ trình ban hành sau khi tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp trong tháng 6/2024.
Về các nghị định trên, Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất thủ tướng Chính phủ xem xét, cho phép áp dụng thủ tục rút gọn đối với ngày có hiệu lực thi hành 3 nghị định (có hiệu lực ngay từ ngày ban hành) theo quy định mới tại Khoản 13 Điều 1 Nghị định 59/2024/NĐ-CP.
Đối với 2 thông tư, Thông tư quy định về công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử nước ngoài; công nhận chữ ký điện tử, chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài, thời hạn ban hành là tháng 5/2024. Hiện Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành tổng hợp, tiếp thu, giải trình xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương và đối tượng chịu tác động. Dự kiến ban hành trong tháng 6/2024.
Đối với Thông tư quy định về thiết lập, vận hành hệ thống tiếp nhận, tổng hợp dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, thời hạn ban hành là tháng 5/2024. Đến hiện tại, Bộ Thông tin và Truyền thông đang tổ chức xây dựng dự thảo thông tư này. Dự kiến tháng 6 hoàn thành nội dung dự thảo, sau đó sẽ gửi xin ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương và đối tượng chịu tác động. Thời hạn hoàn thành trong tháng 8/2024.
08:53 ngày 10/06/2024
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh tham luận tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Để khắc phục các điểm nghẽn về pháp lý phục vụ triển khai Đề án 06 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã tham mưu, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật tập trung vào ưu tiên chỉ đạo, triển khai các nhiệm vụ của tổ công tác. Với sự tập trung triển khai của Bộ Tư pháp và tổ công tác, sự phối hợp của các bộ, ngành, nhất là Bộ Công an, Bộ TT&TT, công tác rà soát văn bản đã đảm bảo đúng tiến độ.
Kết quả rà soát, kiến nghị của các bộ, cơ quan, địa phương để triển khai Đề án 06 (bao gồm cả rà soát văn bản theo Luật Giao dịch điện tử năm 2023) như sau: Số văn bản quy phạm pháp luật cần xử lý là 328 văn bản, trong đó: Văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương: 234 văn bản (gồm: 19 luật; 73 nghị định; 2 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 130 thông tư; 11 thông tư liên tịch; 1 nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao), liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của 20 bộ, ngành.
Văn bản quy phạm pháp luật của 26 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: 94 văn bản (21 nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; 72 quyết định của UBND cấp tỉnh, 1 chỉ thị của UBND cấp tỉnh).
Kết quả cho ý kiến độc lập của Tổ công tác cho thấy, văn bản các bộ, ngành, địa phương rà soát và kiến nghị xử lý tập trung ở một số nội dung: Bổ sung phương thức thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; cắt giảm, đơn giản hóa mẫu đơn, tờ khai có yêu cầu dữ liệu công dân, xuất trình giấy tờ chứng minh, sử dụng bản sao; sử dụng biểu mẫu điện tử; khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu công dân đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư…
Bổ sung quy định về việc ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia khác, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong các lĩnh vực theo hướng: Khai thác, sử dụng thông tin trong các Cơ sở dữ liệu để không yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ, tài liệu, thông tin đã được lưu trữ trong các Cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính.
Bổ sung quy định về giá trị sử dụng thẻ Căn cước công dân gắn chíp điện tử, giá trị sử dụng của các thông tin được tích hợp trong thẻ căn cước công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, xử lý vi phạm hành chính.
Bổ sung quy định về giá trị sử dụng của tài khoản định danh điện tử và việc xác thực điện tử trong giải quyết thủ tục hành chính, giao dịch dân sự qua ứng dụng VNeID.
Thông qua hoạt động rà soát, các cơ quan đã xác định lộ trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản cơ bản trong giai đoạn năm 2023-2025.
Về rà soát, điều chỉnh, thống nhất phương án đơn giản hóa lộ trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính (TTHC), giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư chưa hoàn thành thực thi đã giao tại các Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ giai đoạn 2017-2018
Theo phương án tại các Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ giai đoạn 2017-2018: Tính đến nay, còn 336 TTHC được quy định tại 77 văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện phương án thực thi hoặc mới thực thi một phần (gồm quy định tại 4 luật, 20 nghị định, 10 thông tư liên tịch, 43 thông tư).
Qua rà soát, các bộ, cơ quan ngang bộ đề xuất tiếp tục thực thi phương án đơn giản hóa đối với 317 TTHC được quy định tại 65 văn bản quy phạm pháp luật (1 luật, 26 nghị định, 8 thông tư liên tịch, 30 thông tư); không tiếp tục thực thi phương án đối với 19 TTHC vì đã có những quy định cập nhật.
Theo đó, phương án đề xuất xử lý hiện nay của các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung vào các vấn đề sau: Đề xuất thay đổi phương án đơn giản hóa đối với TTHC có liên quan đến giấy tờ công dân, các thông tin của công dân có trong các mẫu đơn, tờ khai... để bảo đảm phù hợp với hiện trạng kết nối, quản lý, khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Đề xuất lộ trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật tập trung trong năm 2024, một số văn bản trong năm 2025 và căn cứ vào chương trình xây dựng văn bản của Quốc hội (đối với luật, nghị định).
Cập nhật văn bản quy phạm pháp luật có chứa TTHC cần xử lý để thực thi phương án đơn giản hóa so với thời điểm các Nghị quyết của Chính phủ được ban hành, do trong thời gian vừa qua, một số văn bản quy phạm pháp luật quy định TTHC đã thay đổi (văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, hết hiệu lực nhưng văn bản được ban hành sau chưa thực thi phương án đơn giản hóa theo yêu cầu tại các Nghị quyết).
Cập nhật một số TTHC đã bị bãi bỏ, không còn được thực hiện hoặc có phương án thực thi không chính xác tại các Nghị quyết trước đây.
Qua quá trình triển khai thời gian qua, Bộ Tư pháp có một số đánh giá chung. Đó là, việc rà soát văn bản để phục vụ triển khai Đề án 06 là một nhiệm vụ khó, phạm vi văn bản rà soát rộng, mục tiêu lớn, thời gian thực hiện ngắn, nguồn lực chưa tương xứng với khối lượng, tính chất nhiệm vụ.
Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, các bộ, cơ quan, địa phương nhận được nhiều chỉ đạo, yêu cầu thực hiện rà soát văn bản có phạm vi rà soát (về cả nội dung và thời gian) có sự đan xen, giao thoa dẫn đến khó khăn, lúng túng trong việc tổ chức thực hiện, tổng hợp, báo cáo.
Một số bộ, cơ quan chưa kịp thời gửi thông tin, báo cáo về Bộ Tư pháp, ảnh hưởng tới tiến độ tổng hợp, xây dựng Báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ.
Tổ công tác, các bộ, ngành đã có nhiều nỗ lực, nghiêm túc, tập trung thực hiện rà soát, bảo đảm thời hạn, chất lượng theo chỉ đạo.
Qua theo dõi, Bộ Tư pháp nhận thấy các khó khăn về pháp lý và thể chế đã được nhận diện, đề nghị các bộ, ngành, địa phương nhận diện theo các quy định pháp luật để tạo tiền đề thành công Đề án 06 nói riêng và xây dựng Chính phủ số, kinh tế số nói chung.
Bộ Tư pháp nhất trí với các đề xuất của Bộ Công an về những đề nghị hoàn thiện thể chế liên quan đến triển khai Đề án 06 như Thứ trưởng Bộ Công an vừa báo cáo.
Về đề xuất, kiến nghị, Bộ Tư pháp đề nghị đối với việc xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Đề án 06, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện nghiêm chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang tại văn bản số 2635 ngày 21/4/2024 về ban hành sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật đã rà soát, bổ sung…
Đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp đã được đề ra, bám sát tiến độ thực hiện Đề án 06 để xử lý hiệu quả kịp thời.
Các bộ, ngành cần tập trung nguồn lực bảo đảm công tác rà soát văn bản, xây dựng văn bản được thực hiện hiệu quả, đúng tiến độ, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật đã có kế hoạch, chương trình sửa đổi, bổ sung.
Đối với việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử, Bộ Tư pháp nhất trí cao với các giải pháp về thể chính mà Bộ trưởng Bộ Tài chính đề xuất.
Bộ Tư pháp cũng đề nghị trong quá trình xây dựng, thẩm định văn bản, tham mưu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các bộ, ngành, địa phương cần lưu ý rà soát các quy định triển khai Đề án 06 và thực thi các giải pháp, phương án đơn giản hoá quy định liên quan đến thủ tục hành chính, kinh doanh liên quan đến công dân đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhất là vấn đề chia sẻ, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đẩy mạnh giao dịch điện tử, thương mại điện tử, tăng cường chuyển đổi các giao dịch theo phương thức truyền thống sang môi trường điện tử, trong đó có giao dịch các thủ tục hành chính qua ứng dụng VneID, góp phần tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
09:02 ngày 10/06/2024
Thứ trưởng Bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông: Về sửa đổi các quy định về đấu thầu để lựa chọn nhà thầu đối với các sản phẩm công nghệ thông tin có tính chất đặc thù, Bộ KH&ĐT đã tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2024.
Luật này đã quy định các hình thức lựa chọn nhà thầu, góp phần tháo gỡ bất cập vướng mắc trong công tác lựa chọn nhà thầu, trong đó có việc lựa chọn nhà thầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Cụ thể Điều 22 của Luật đã cho phép đấu thầu hạn chế đối với gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật và tính chất đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu.
Thứ hai là Điều 23 của Luật Đấu thầu cho phép áp dụng các hình thức chỉ định thầu trong trường hợp gói thầu chỉ có duy nhất một nhà thầu thực hiện trên thị trường do yêu cầu về các giải pháp công nghệ. Ngoài ra các quy định về ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất có xuất xứ Việt Nam, trong đó các sản phẩm công nghệ thông tin và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin được quy định trên nguyên tắc khuyến khích hỗ trợ các sản phẩm trong nước và sản phẩm có tính chất đổi mới sáng tạo giúp cho các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm có cơ hội tốt hơn trong việc tiếp cận thị trường, đảm bảo cạnh tranh công bằng, minh bạch trên cơ sở Luật Đấu thầu.
Bộ cũng tham mưu cho cho Chính phủ ban hành Nghị định 24 hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu cũng đã tháo gỡ một số điểm nghẽn của Đề án 06: Thứ nhất là đã bổ sung đối tượng được ưu đãi dịch vụ công nghệ thông tin; việc ưu đãi dịch vụ công nghệ thông tin cách xác định hàng hóa có xuất sứ Việt Nam đối với các sản phẩm phần mềm công nghệ thông tin thực hiện theo quy định của pháp luật về công nghệ thông tin. Thứ hai là quy định một trong những căn cứ xác định giá gói thầu và dự toán nếu pháp luật chuyên ngành có quy định về việc lập dự toán và có hướng dẫn về định mức và đơn giá.
Tiếp theo đó, Bộ cũng đã ban hành Thông tư số 06/2024/TT-BKHĐT hướng dẫn việc cung cấp, đăng tải thông tin về lựa chọn nhà thầu và mẫu hồ sơ đấu thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Thông tư này đã cơ bản giải quyết được những điểm nghẽn của Đề án 06, chúng tôi đề nghị các bộ, ngành căn cứ để triển khai các nhiệm vụ được giao.
Nội dung thứ hai liên quan đến việc bố trí nguồn vốn đầu tư công để thực hiện các nhiệm vụ của Đề án 06 và chuyển đổi số, như báo cáo của Bộ Công an, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, vốn ngân sách Trung ương bố trí cho ngành công nghệ thông tin là 12.077,776 tỷ đồng; ngoài ra, tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã bố trí 4.421 tỷ đồng cho 19 dự án chuyển đổi số của 08 bộ, cơ quan Trung ương. Như vậy, trong giai đoạn 2021-2025, ngành công nghệ thông tin, chuyển đổi số đã được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên dành nguồn lực để triển khai thực hiện.
Về bố trí nguồn lực cho Bộ Công an triển khai Đề án 06, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025 từ nguồn tăng thu ngân sách Trung ương cho 03 dự án của Bộ Công an. Ba dự án này cũng đã được giao kế hoạch 2024 đối với các bộ, ngành và địa phương khác. Chúng tôi cũng đã gửi Công văn 3141 ngày 25/4/2024 hướng dẫn trên tinh thần là các bộ, ngành, địa phương rà soát các dự án chưa triển khai thực hiện đã giao trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025 thì bố trí cho các nhiệm vụ của Đề án 06. Thứ hai là các địa phương báo cáo với HĐND ưu tiên bố trí các nhiệm vụ phát sinh mà chưa được bố trí trong trung hạn.
Chúng tôi cũng đề nghị các bộ, ngành nghiên cứu thêm để triển khai nhanh hơn các nhiệm vụ của Đề án 06. Có thể tham mưu theo công văn hướng dẫn của Bộ Tài chính số 4193 ngày 22/4/2024, có thể ưu tiên thuê các dịch vụ công nghệ thông tin hoặc góp vốn để có thể thực hiện theo hình thức PPP trong lĩnh vực này.
Chúng tôi cũng sẽ nghiên cứu và triển khai các quy định mới về quản lý đăng ký kinh doanh đặc thù đối với thương mại điện tử cũng như là các mô hình kinh doanh trên nền tảng số; đồng thời sẽ nghiên cứu, sửa đổi các quy định về phân ngành kinh doanh để quy định cụ thể các ngành, lĩnh vực thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh trên nền tảng công nghệ để đảm bảo tăng cường công tác quản lý nhà nước.
09:08 ngày 10/06/2024
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn: Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực triển khai đề án 06 và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hiện nay, Bộ đang tập trung giành nguồn lực để triển khai tiếp đề án này, trong đó bao gồm: Tiếp tục cập nhật và hoàn thiện cơ sở dữ liệu của ngành; triển khai dịch vụ công đăng ký thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (đã có hơn 1 triệu thí sinh đăng ký dự thi thành công tốt nghiệp trong năm 2024); cơ bản đã hoàn thành khâu chuẩn bị và đang gấp rút đưa hệ thống dịch vụ công đăng ký xét tuyển đại học năm 2024 và hoạt động vào cuối tháng 7 tới này.
Bộ đã ban hành mô hình hướng dẫn các địa phương tổ chức thí điểm thực hiện học bạ số. Hiện nay các trường và các địa phương đã kết nối và báo cáo việc thực hiện học bạ số về Bộ Giáo dục và Đào tạo, dự kiến đến cuối tháng 6/2024 sẽ hoàn thành. Chúng tôi sẽ tổ chức hội nghị đánh giá việc thực hiện học bạ số vào tháng 7 tới này.
Về một số điểm nghẽn trong thực hiện, triển khai Đề án 06, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang gặp 2 điểm tắc nghẽn, đó là chưa bảo đảm hạ tầng về công nghệ thông tin, và chưa đảm bảo về an toàn thông tin để kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia.
Chúng tôi đã có các cuộc họp với Bộ Tài chính để tháo gỡ các điểm nghẽn về kinh phí, trong đó chúng tôi đã gửi các đề xuất của mình đến Bộ Tài chính.
Về việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, chuyển đổi số, hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo được phân công xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật, bao gồm cả công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và các lĩnh vực năng lượng mới, đặc biệt là công nghệ bán dẫn. Bộ đang tích hợp lại để làm thành một dự án chung có tên là "Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ cao". Đến nay, việc chuẩn bị các công tác cho đề án này đang được gấp rút hoàn thành và phấn đấu trong tháng 6 để trình Thủ tướng.
Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đang được đưa vào đề án bao gồm: Việc thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của các cấp hội, ngành nghề liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao; hoàn thiện các cơ chế chính sách để hỗ trợ người học; đổi mới chương trình và các phương thức đào tạo; thúc đẩy hợp tác quốc tế và hợp tác với các doanh nghiệp; gắn kết nghiên cứu với các trải nghiệm ứng dụng công nghệ và giáo dục trí tuệ nhân tạo; xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng từ bậc cử nhân đến tiến sĩ... Ở các ngành đào tạo trọng điểm thì triển khai cơ chế đặt hàng; tăng cường hỗ trợ đào tạo giảng viên, thu hút nhân tài đào tạo khoa học công nghệ ở Việt Nam và từ nước ngoài; hoàn thiện các cơ chế và chính sách; tăng cường huy động các nguồn đầu tư về cơ sở vật chất, về công nghệ để phục vụ cho đào tạo gắn với nghiên cứu đổi mới sáng tạo trong các ngành, lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao.
09:13 ngày 10/06/2024
Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi: Thành phố thống nhất với báo cáo của Bộ Công an đã trình bày và báo cáo tham luận của các bộ, ngành, địa phương, trong đó có nhiều ý kiến cụ thể, quan trọng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tại
Hội nghị hôm nay, tôi xin báo cáo kết quả thực hiện và nêu một số khó khăn của Thành phố Hồ Chí Minh trong triển khai thực hiện Đề án 06 của Chính phủ và đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành một số nội dung, cụ thể:
Thời gian qua, Thành phố đã chỉ đạo các đơn vị, sở, ngành thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nhân lực, kinh phí, trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin để triển khai các nhiệm vụ của Đề án 06, trong đó tập trung việc nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, số hóa và lưu trữ kho hồ sơ kết quả giải quyết thủ tục hành chính từ hệ thống thông tin giải quyết TTHC tại quận huyện, sở ban ngành theo định danh cá nhân…
Một số kết quả Thành phố Hồ Chí Minh đạt được đã có đề cập trong Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng Chính phủ tổng hợp tại Hội nghị.
Đến nay, Thành phố vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách do các nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Về dịch vụ công trực tuyến, việc liên thông thủ tục hành chính trên môi trường điện tử cũng còn nhiều vướng mắc do thiếu các văn bản hướng dẫn chuyên ngành. Ví dụ:
Đối với 02 nhóm thủ tục liên thông "Khai sinh – Khai tử" chưa có sự thống nhất giữa Luật Cư trú và văn bản triển khai thực hiện 02 nhóm liên thông về giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp.
Về thu thập dữ liệu công dân: Một số trường hợp nhân khẩu có Giấy khai sinh trước năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh theo Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, do đó không thể cập nhật trường thông tin "Quốc tịch" trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Về thực hiện Mô hình điểm: Mô hình triển khai thiết bị giám sát thi cử, sát hạch lái xe: Thành phố đã có ý kiến gửi Cục Đường bộ Việt Nam về điều chỉnh phần mềm Quản lý giấy phép lái xe cho Cơ sở đào tạo liên thông dữ liệu đầu vào khi người dân đăng ký học. Tuy nhiên, đến nay Cục Đường bộ Việt Nam chưa điều chỉnh phần mềm.
Mô hình học bạ số: Học bạ số mỗi năm sẽ được cấp mã tra cứu học bạ số (mã UUID) phát sinh thêm 01 mã ngoài mã định danh công dân. Chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc chuyển học bạ số từ dữ liệu điện tử ký số sang bản giấy. Những vướng mắc trên gây khó khăn cho người dân trong việc quản lý hồ sơ và khó khăn trong công tác quản lý của các trường đối với những học sinh thường xuyên chuyển trường giữa các tỉnh khác nhau.
Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành một số nội dung sau:
Về thể chế:
- Văn phòng Chính phủ chỉnh sửa phụ lục 1 về việc bãi bỏ việc yêu cầu công dân đính kèm giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp (vì trái quy định của Luật Cư trú) khi thực hiện 02 thủ tục liên thông "đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú - cấp bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi" trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
- Bộ Tư pháp tháo gỡ đối với các trường hợp Giấy khai sinh công dân có sử dụng những ký tự đặc biệt, Giấy khai sinh trước năm 1975 nhưng phần quốc tịch bỏ trống hoặc không có tài liệu chứng minh theo Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng duy nhất mã định danh công dân khi thực hiện mô hình học bạ số và quy định hướng dẫn cụ thể về việc chuyển học bạ số từ dữ liệu điện tử ký số sang dữ liệu giấy.
Về dịch vụ công:
- Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an trao đổi các Bộ, ngành nghiên cứu giải pháp khi người dân nộp hồ sơ điện tử trên Cổng Dịch vụ công quốc gia hoặc trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử của Bộ, ngành, địa phương bằng tài khoản VNeID là tài khoản duy nhất trong thực hiện thủ tục hành chính, trên môi trường điện tử từ ngày 01/7/2024 theo chủ trương của Chính phủ thì không cần phải ký số điện tử. Để từ đó, giảm bớt chi phí khi người dân sử dụng dịch vụ ký số, giảm bớt các thao tác khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến trên cổng dịch vụ công.
- Bộ Công an Cập nhật phần mềm liên thông Đăng ký khai tử -
xóa đăng ký thường trú - trợ cấp mai táng phí được chọn mối quan hệ chủ hộ đối với trường hợp xoá đăng ký thường trú chủ hộ.
- Cục Đường bộ Việt Nam – Bộ Giao thông vận tải tích hợp, điều chỉnh phần mềm quản lý Giấy phép lái xe phân hệ cho Cơ sở đào tạo liên thông dữ liệu đầu vào khi người dân đăng ký.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Công an, Bộ Y tế chia sẻ dữ liệu về người dân Thành phố từ các cơ sở dữ liệu do các cơ quan, bộ, ngành đang quản lý (ít nhất 01 tháng/lần) để làm cơ sở dữ liệu triển khai Sổ sức khỏe điện tử trên địa bàn Thành phố.
- Bộ Tư pháp nâng cấp cổng đồng bộ dữ liệu Hộ tịch, Lý lịch tư pháp thực hiện kết nối, liên thông dữ liệu Hộ tịch, Lý lịch tư pháp vào Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính địa phương.
- Văn phòng Chính phủ nâng hiệu năng Cổng thanh toán trực tuyến đảm bảo tốc độ phản hồi thông tin nhanh, không bị mất thông tin, đảm bảo chất lượng phục vụ người dân trong thực hiện các thủ tục hành chính toàn trình.
Thực hiện chỉ đạo của cơ quan thường trực Đề án 06, vừa qua, Thành ủy tiếp tục có một văn bản sau Chỉ thị 24 về chuyển đổi số thực hiện Đề án 06. Chúng tôi đang tập trung triển khai chỉ đạo của Thành ủy và ban ngành. Thành phố cũng đã làm việc với Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan thường trực của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số, báo cáo các vướng mắc, đề xuất của Thành phố. Rất mong Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số tập trung tháo gỡ.
09:21 ngày 10/06/2024
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Cao Tường Huy chia sẻ về việc thực hiện Đề án 06 tại Quảng Ninh - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Cao Tường Huy: Triển khai Văn bản 452 của Thủ tướng, chúng tôi cũng nhận diện được những điểm nghẽn. Được sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương, nhất là Tổ công tác Đề án 06 của Chính phủ, chúng tôi đã giải quyết được gần hết những điểm nghẽn đã xác định. Thứ nhất là về thể chế, thứ hai là hạ tầng công nghệ thông tin, thứ ba là dịch vụ công trực tuyến, thứ tư là dữ liệu và thứ năm là nhân lực.
Đến nay, về thể chế, chúng tôi đã ban hành Nghị quyết HĐND tỉnh và cũng đã chủ động rà soát tất cả quy trình tiếp nhận thủ tục hành chính của người dân theo quy trình 5 bước trong đó đã sử dụng chữ ký số, điện tử trong toàn bộ quy trình thủ tục hành chính.
Về công nghệ thông tin chúng tôi đã chủ động triển khai 7 giải pháp, trong đó có tích hợp trung tâm dữ liệu của tỉnh, 6 giải pháp cơ bản được Ban Cơ yếu Chính phủ và Bộ TT&TT hướng dẫn.
Về dịch vụ công trực tuyến, chúng tôi đã ban hành kế hoạch, giao chỉ tiêu cho các địa phương với mục tiêu năm sau cao hơn năm trước; chỉ đạo cán bộ thay đổi tư duy từ làm thay làm hộ công dân sang hướng dẫn công dân, bố trí cán bộ tại tất cả trung tâm hành chính công của tỉnh, huyện, bộ phận 1 cửa cấp xã.
Chúng tôi cũng đã yêu cầu 100% trung tâm dịch vụ công của tỉnh, huyện và trên 95% của cấp xã phải thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay chúng tôi bố trí 100% kinh phí cho công an cấp xã để mua sắm trang thiết bị phục vụ chuyển đổi số.
Vừa rồi, triển khai chỉ đạo của Chính phủ, chúng tôi quyết tâm đưa hệ thống giải quyết hành chính qua ứng dụng VNeID, bắt đầu thực hiện từ 1/7/2024.
Về dữ liệu, chúng tôi hoàn thành kết nối dữ liệu quốc gia. Đến nay chúng tôi có 14 dữ liệu quốc gia của 14 bộ, ngành Trung ương trong đó có 8 dữ liệu đang khai thác và 6/14 dữ liệu đang được thử nghiệm. Chúng tôi cũng đã triển khai số hóa 100% thủ tục hành chính tại tất cả trung tâm hành chính công của tỉnh, huyện và cấp xã.
Chúng tôi đã đồng bộ với Cổng dịch vụ công quốc gia, hoàn thành nhiệm vụ số hóa sổ hộ tịch và đưa vào khai thác.
Về nguồn lực, chúng tôi cũng đã triển khai đến tất cả địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Đến nay, đã triển khai đào tạo trên 43.000 lượt cán bộ công chức, viên chức làm việc.
Thời gian qua, triển khai Đề án 06, chúng tôi cũng đăng ký 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp, đến nay thực hiện cơ bản xong 10/11 nhiệm vụ này và tiếp tục thực hiện một nhiệm vụ nữa là thu phí tại các điểm đỗ tiện ích.
Chúng tôi mong muốn các bộ, ngành Trung ương hỗ trợ cho Quảng Ninh cũng như các địa phương khác một số việc như sau:
Thứ nhất, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của Chủ tịch UBND TPHCM. Có một số nội dung liên quan đến kết quả giải quyết thủ tục hành chính mà phải ký trực tiếp, phôi in sẵn như bằng lái xe, lý lịch tư pháp, chúng tôi đề nghị phải hướng dẫn để tích hợp vào phần mềm ký số. Phải tích hợp được, in ra mà ký thì không đồng bộ.
Thứ hai, phần mềm thông tin đất đai, Bộ TN&MT hỗ trợ Quảng Ninh là địa phương đầu tiên tham gia hệ thống này, chúng tôi cũng đang xây dựng phần mềm của tỉnh. Tuy nhiên, vừa rồi Bộ TN&MT đang xây dựng hệ thống quốc gia, chúng tôi mong muốn tham gia ngay từ đầu thử nghiệm luôn trên địa bàn Quảng Ninh.
Thứ ba, chúng tôi cũng mong muốn sửa đổi Nghị định 73 của Bộ TT&TT , Luật Giao dịch điện tử sớm được ban hành, áp dụng trên địa bàn toàn quốc để việc chuyển đổi số thuận lợi hơn.
09:25 ngày 10/06/2024
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân: Để góp phần lành mạnh hóa thị trường TMĐT, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Công an triển khai một số nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị 18/CT-TTg ngày 03/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ. Kết quả chúng tôi thực hiện cụ thể như sau:
Đối với việc hoàn thiện chính sách pháp luật về TMĐT, Bộ Công Thương đang tiến hành rà soát các quy định của Luật Giao dịch điện tử 2023, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 và những tồn tại bất cập trong công tác quản lý nhà nước về TMĐT để chuẩn bị Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện từ và Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/2013/NĐ-CP.
Bộ Công Thương cũng đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2024/ NĐ-CP ngày 16/5/2024 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023. Nghị định bổ sung nhiều quy định tăng cường hoạt động giám sát thông tin, dữ liệu nhằm bảo vệ người tiêu dùng trên không gian mạng.
Đối với việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu dùng chung về TMĐT, kết nối dữ liệu, hiện chúng tôi đã xây dựng và đưa vào vận hành cơ sở dữ liệu về TMĐT phục vụ công tác quản lý của Bộ. Bên cạnh đó, phối hợp với Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) thống nhất quy chuẩn, tiêu chuẩn kết nối, chia sẻ dữ liệu hiện hành, tiến tới kết nối hệ thống của hai đơn vị. Thời hạn hoàn thành trong tháng 6/2024.
Đồng thời Bộ cũng đã triển khai tích hợp thí điểm ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip và dữ liệu dân cư để xác thực định danh chủ thể trong giao kết thực hiện hợp đồng điện từ trên Trục phát triển hợp đồng điện tử Việt Nam.
Đối với việc chia sẻ dữ liệu, hiện nay Bộ Công Thương đã cung cấp cho Tổng cục Thuế thông tin về 929 sản giao dịch TMĐT và 284 ứng dụng cung cấp dịch vụ TMĐT. Các thông tin bao gồm: mã số thuế, tên doanh nghiệp, địa chỉ tên miền, loại sàn, tỉnh/thành phố.
Đối với giải pháp khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ TMĐT ứng dụng tài khoản định danh điện tử, ứng dụng thẻ Căn cước công dân gắn chip hoặc dữ liệu dân cư để xác thực thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT, thực hiện Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 17/5/2024, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số - Bộ Công Thương và Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng dữ liệu dân cư, căn cước công dân - Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06 - Bộ Công an) đã phối hợp tổ chức buổi tọa đàm, hướng dẫn các nền tảng TMĐT về việc ứng dụng tài khoản định danh điện tử để xác thực người bán. Qua đó, khuyến khích các nền tảng TMĐT này ứng dụng VNeID để xác thực thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT.
Dự kiến, chúng tôi sẽ thực hiện những công việc trong thời gian tới, bao gồm:
Bộ Công Thương sẽ kết nối với Tổng cục Thuế chuyển dữ liệu của 48.348 thông tin website/ứng dụng TMĐT bán hàng và 1.218 website/ứng dụng cung cấp dịch vụ TMĐT ngay sau khi hoàn thành việc kết nối hệ thống của hai đơn vị trong tháng 6/2024 (công tác này vượt trước tiến độ 1,5 năm).
Hiện nay, Cổng Dịch vụ công của Bộ Công Thương đã kết nối toàn diện với Cổng Dịch vụ công quốc gia. Theo quy định xác thực điện từ, Cổng Dịch vụ công của Bộ Công Thương sẽ phủ về định danh cá nhân đăng ký tài khoản trên Cổng và chỉ sử dụng VNeID là tài khoản duy nhất trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trên môi trường điện từ thông qua việc cá nhân có thể sử dụng tài khoản đã được xác thực trên Cổng Dịch vụ công quốc gia để khai báo hồ sơ trên Cổng Dịch vụ công Bộ Công Thương.
Đối với tài khoản khác (tổ chức, doanh nghiệp, người nước ngoài), Bộ Công Thương sẽ thực hiện chuyển đổi sau khi có văn bản hướng dẫn của Bộ Công an theo nội dung văn bản số 3701/VPCP-KSTT ngày 29/5/2024 của Văn phòng Chính phủ về việc chuyển đổi, sử dụng tài khoản VNeID trong thực hiện TTHC.
Với những công việc dự kiến trên, Bộ có những đề xuất, kiến nghị:
Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong việc chia sẻ cơ sở dữ liệu, tăng cường quản lý hoạt động TMĐT trong tháng 6/2024; đặc biệt xem xét việc liên thông dữ liệu mã số thuế của doanh nghiệp, hỗ trợ Bộ Công Thương định danh doanh nghiệp TMĐT.
Bộ Công an chủ trì nghiên cứu và đề xuất phương án xây dựng hạ tầng chính sách, pháp luật tổng thể; trong đó, yêu cầu ứng dụng tài khoản định danh điện tử, ứng dụng thẻ Căn cước công dân gắp chip hoặc dữ liệu dân cư để xác thực thông tin người kinh doanh trên các nền tảng số.
09:33 ngày 10/06/2024
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Thời gian qua, triển khai Đề án 06 và Chỉ thị về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Tài chính và các bộ, ngành, cơ quan liên quan tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, tập trung công tác hoàn thiện thể chế về hệ thống thanh toán quốc gia, chính sách đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật...
Chỉ thị 18 đã chỉ đạo nhiều nội dung cụ thể đã giải quyết những điểm nghẽn trong quá trình thực hiện Đề án 06. Chỉ thị này vừa thúc đẩy chuyển đổi số, vừa tăng ngân sách Nhà nước… đã chỉnh sửa, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thanh toán không dùng tiền mặt và thúc đẩy phát triển tiện ích thanh toán điện tử.
Đối với nhiệm vụ này, NHNN đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ, trình Quốc hội Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi vào tháng 1/2024 và đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 52 về thanh toán không dùng tiền mặt. NHNN đã ban hành chiến lược thúc đẩy hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt đến năm 2030.
Hiện nay, NHNN đang khẩn trương rà soát để ban hành những quy định mới theo thông tư hướng dẫn theo những quy định mới của Luật sửa đổi và theo Nghị định 52, đồng thời đảm bảo tương thích theo những quy định khác của pháp luật.
Song song với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo thông suốt, an toàn.
Đến nay, hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã xử lý bình quân hơn 830 nghìn tỷ đồng/ngày. Hệ thống thanh toán bán lẻ xử lý bình quân từ 20-25 triệu giao dịch/ngày. Con số rất lớn để đảm bảo thanh toán cho doanh nghiệp và người dân. Các dịch vụ thanh toán mới rất an toàn, thiết thực, tiện lợi cho người dân như thanh toán qua QR Code…
Số lượng giao dịch thanh toán qua kênh internet và mobile bình quân giai đoạn 2021-2023 lần lượt tăng trưởng ở mức 52% và 103,3%. Tăng trưởng về số lượng và giá trị thanh toán qua phương thức QR Code đạt hơn 170%.
Hiện đã có hơn 87,08% người trưởng thành tại Việt Nam có tài khoản ngân hàng, 182 triệu tài khoản thanh toán của khách hàng cá nhân và hơn 147 triệu thẻ ngân hàng đang hoạt động.
Tất cả những hình thức này đã giúp cho chúng ta chuyển đổi số.
Nhiệm vụ tiếp theo mà NHNN được giao là thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán nhằm hỗ trợ cho công tác quản lý thuế.
Với hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, đầu tháng 11/2023 NHNN đã làm việc với cơ quan thuế, NHNN đã chỉ đạo ngân hàng và trung gian thanh toán kết nối cung cấp thông tin với các cơ quan thuế.
Đến nay, các tổ chức tín dụng đã cung cấp cho Bộ Tài chính hơn 130 triệu tài khoản thanh toán của người nộp thuế.
NHNN cũng đã đề nghị Bộ Tài chính thống nhất giao Tổng cục Thuế là đơn vị đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin tài khoản thanh toán của người nộp thuế từ các tổ chức tín dụng để cho phép các cơ quan quản lý thuế khác khai thác thông tin từ Cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế.
Về khó khăn, vướng mắc, trong quá trình triển khai Đề án 06 và Chỉ thị 18 phát sinh một số vướng mắc như sau: Thông tin, dữ liệu về tài khoản thanh toán của người nộp thuế là các thông tin nhạy cảm, đòi hỏi việc xử lý, tổng hợp cẩn thận, đáp ứng quy định về bảo vệ bí mật thông tin khách hàng và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Chính vì vậy, thời gian tới, NHNN đề nghị các tổ chức tín dụng ưu tiên các quy định của pháp luật và cũng đề nghị Bộ Tài chính có hướng dẫn chuẩn hoá về dữ liệu, quy định về phương thức kết nối, chia sẻ thông tin của các tổ chức tín dụng cung cấp để đảm bảo đáp ứng việc kết nối để chống thất thu thuế nhưng vẫn bảo vệ được dữ liệu cá nhân.
09:40 ngày 10/06/2024
Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Hà Minh Hải thông tin về kết quả thực hiện Đề án 06 tại Hà Nội - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Hà Minh Hải: Chúng tôi nhận thức được Đề án 06 là đề án tiền đề mang tính đột phá để xây dựng Chính phủ điện tử và hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đây là phương thức quan trọng hiệu quả nhất để có thể đi tắt đón đầu chuyển đổi xanh, phát triển nhanh và bền vững.
Bám sát tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với sự hỗ trợ tháo gỡ và tạo điều kiện của các bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là sự giúp đỡ hỗ trợ của Tổ công tác Đề án 06 của Chính phủ, C06 Bộ Công an, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (Văn phòng Chính phủ), việc triển khai đề án của thành phố Hà Nội đã đạt được một số kết quả.
Thứ nhất là nhận thức tư duy cách làm trong công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số triển khai Đề án 06 của các cơ quan đơn vị và các quận, huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực với nhiều đổi mới sáng tạo, đạt kết quả cụ thể thiết thực nhất định.
Một là kết quả triển khai thí điểm hồ sơ sức khỏe điện tử ứng dụng VNeID: Đến nay đã cơ bản hoàn thành triển khai thí điểm và hoàn thành 4/4 nội dung quan trọng theo kế hoạch. Đã hoàn thành việc xây dựng phần mềm hồ sơ sức khỏe điện tử trên địa bàn phục vụ công tác quản lý khám chữa bệnh; kết nối chia sẻ dữ liệu khám chữa bệnh của người dân với phần mềm quản lý sức khỏe với 651 cơ sở y tế công lập và ngoài công lập, đã cấp tài khoản 3.900 cán bộ y tế; Tạo dữ liệu của trên 9,2 triệu người dân với 16,2 triệu lượt khám chữa bệnh trên phần mềm sức khỏe điện tử từ các nguồn dữ liệu; Đồng bộ hoá 3,5 triệu hồ sơ người dân với 48/48 trường thông tin theo hướng dẫn của Bộ Y tế (chỉ riêng việc việc bỏ sổ giấy đã tiết kiệm cho người dân 8,1 tỷ đồng).
Thứ hai, Thành phố đã đưa vào vận hành hệ thống vé điện tử và triển khai thanh toán không dùng tiền mặt tại các điểm trông giữ xe. Thành phố cũng đã triển khai thí điểm hệ thống giám sát giao thông thông minh, dự kiến từ cuối tháng 6/2024 sẽ vận hành thí điểm. Thành phố cũng đã triển khai thí điểm thanh toán không dùng tiền mặt tại 57 điểm trông giữ xe trên địa bàn 9 quận và sẽ có thêm 7 quận nữa triển khai thí điểm với kết quả là có trên 70,9% lượt giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt, qua đó bảo đảm công khai, minh bạch, tiện lợi được sự ủng hộ của người dân. Hiện nay, các đơn vị đang hoàn thiện công nghệ hướng tới áp dụng công nghệ theo nguyên tắc 2 không 1 có (Không dùng tiền mặt, không dừng và có hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan chức năng).
Thứ ba là cấp lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID: Được sự quan tâm hỗ trợ chỉ đạo sâu sắc của Tổ Đề án 06, thành phố Hà Nội và thành phố Huế đã thực hiện thí điểm cấp lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID từ 22/4. Thành phố cũng đã ban hành Nghị quyết hỗ trợ 100% lệ phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho người dân. Trong vòng hơn 1 tháng triển khai thực hiện, đến nay đã có trên 8.000 lượt công dân thực hiện yêu cầu cấp lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID với con số 78,6% số cấp phiếu được cấp.
Thứ tư là chi trả an sinh xã hội, lương hưu và trợ cấp xã hội không dùng tiền mặt: Thành phố đã ban hành kế hoạch triển khai tới các quận, huyện để thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là sự vào cuộc của lực lượng công an cơ sở, công chức cấp xã rồi các tổ dân phố, ngân hàng thương mại. Đến nay, trong vòng 10 ngày tỉ lệ vận động các đối tượng đăng ký tài khoản ngân hàng đã tăng hơn 60% và đạt 93,4%; còn trợ cấp bảo hiểm xã hội trả lương hưu trong vòng 21 ngày đã đạt 95,4%, tăng gần gấp đôi so với thời điểm trước khi thực hiện.
Thứ năm, việc triển khai hóa đơn điện tử, tăng cường quản lý thuế đối với thương mại điện tử theo tinh thần Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, Cục Thuế Hà Nội đã ban hành kế hoạch phối hợp chặt chẽ, xây dựng dữ liệu, xây dựng tiêu chí chuyển hóa cơ sở dữ liệu định danh, với phương châm là nắm chắc đối tượng, nắm chắc kê khai, nắm chắc đồng tiền. Đến tháng 6/2024 đã định danh tổng hợp dữ liệu lớn về thương mại điện tử gồm 418 doanh nghiệp, sàn thương mại điện tử; 668 chủ thể kinh doanh sản phẩm và nội dung số. Trên cơ sở những dữ liệu từ 3 sàn lớn nhất, Cục Thuế Hà Nội đã tổng hợp chuẩn hóa dữ liệu về chủ thể, doanh thu của trên 366.000 shop, tương ứng với 197.000 mã số tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh trên 3 sàn và đến nay tổng số thuế nộp của 418 doanh nghiệp, sàn thương mại điện tử là 2.547 tỷ và của các hộ kinh doanh cá nhân 7.362 tỷ.
Về một số nhiệm vụ và giải pháp, thành phố Hà Nội đề xuất: Một là Thành phố sẽ tiếp tục bám sát chỉ đạo của Chính phủ trong triển khai Đề án 06, đặc biệt là tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn.
Thứ hai, Thành phố sẽ chủ động trong việc đề suất các thí điểm với các việc mới, khó trong thực hiện, rất mong Tổ Để án 06 Chính phủ ủng hộ cho Hà Nội tiếp tục triển khai thí điểm.
Thứ ba, tiếp tục tham mưu báo cáo đề xuất tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc về thể chế, tiêu chuẩn, định mức, dữ liệu, đặc biệt là chia sẻ kết nối dữ liệu và thanh toán không dùng tiền mặt, tạo hành lang pháp lý tốt hơn cho việc chuyển đổi số.
09:47 ngày 10/06/2024
Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Trịnh Việt Hùng: Đối với việc triển khai Đề án 06, tỉnh Thái Nguyên là một trong 4 địa phương được Trung ương chọn làm mô hình điểm triển khai Đề án. Đến nay, tỉnh đã khai thác và sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư một cách hiệu quả, áp dụng vào tất cả các lĩnh vực có sử dụng đến thông tin của công dân, giúp cho công việc chuyển đổi số được thực hiện một cách toàn diện.
Để tháo gỡ "điểm nghẽn" Đề án 06 theo Công văn số 452 ngày 23/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ và đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được giao và đã đạt nhiều kết quả tích cực (đã có Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ).
Để tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, chúng tôi đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, nhất là trong việc triển khai các ứng dụng chuyển đổi số phục vụ công tác quản lý Thuế. Trong quá trình phối hợp, chúng tôi thấy có một số thuận lợi.
Đó là sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong rất quyết liệt, kịp thời và hiệu quả thể hiện tại nhiều Văn bản như: Công văn số 452 ngày 23/5/2023, Chỉ thị số 18 ngày 30/5/2023, Công điện số 56/CĐ-TTg ngày 6/6/2024; sự thống nhất, quyết tâm cao trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tại địa phương. Cấp ủy chính quyền các cấp đã vào cuộc quyết liệt, nghiêm túc, trách nhiệm…
Đồng thời, cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý.
Bên cạnh những thuận lợi, chúng tôi cũng thấy có những khó khăn. Thứ nhất, đây là lĩnh vực mới, phi truyền thống, trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước nói chung còn chưa nhiều kinh nghiệm.
Thứ hai, các cơ chế, chính sách đang trong giai đoạn nghiên cứu, hoàn thiện, đồng bộ, nhất là quy định về phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Ngoài ra, việc chấp hành các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của người bán hàng, kinh doanh thương mại điện tử còn chưa cao, đòi hỏi trong công tác quản lý của cơ quan nhà nước phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thường xuyên.
Trước yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, thời gian qua, UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các sở, ngành liên quan; giao Cục Thuế tỉnh chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Công Thương, Công an tỉnh, Cục Quản lý thị trường (QLTT) và các đơn vị liên quan xây dựng và triển khai thí điểm ứng dụng chuyển đổi số vào công tác quản lý hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Chúng tôi đã sử dụng công cụ công nghệ thông tin trên nền tác nhân AI để tự động thu thập thông tin công khai của các gian hàng trên sàn TMĐT, xác định doanh thu làm cơ sở xác định nghĩa vụ thuế phải nộp NSNN.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo Công an tỉnh, Cục Thuế tỉnh và các sở, ngành, địa phương tập trung rà soát đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu về mã số thuế cá nhân, trong đó thông tin của các hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT là một trong các nhóm thông tin cần phải rà soát.
Đồng thời có sự phối hợp giữa các nhà mạng trên địa bàn (VNPT, Viettel, FPT...) với cơ quan Thuế để rà soát và yêu cầu cung cấp thêm thông tin định danh cá nhân của các chủ gian hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Thái Nguyên chỉ đạo các tổ chức tín dụng phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thuế các cấp trên địa bàn thu thập và đối chiếu số liệu doanh thu của người nộp thuế.
Chúng tôi cho rằng, để làm được việc này thì các dữ liệu của Đề án 06 là rất quan trọng và phải đảm bảo nguyên tắc "Đúng, đủ, sạch, sống". Đồng thời, giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương phải yêu cầu có sự phối hợp hết sức chặt chẽ, thống nhất và hiệu quả.
Vì thế, UBND tỉnh đề nghị cơ quan Quản lý thị trường, Ngân hàng nhà nước tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm qua các giao dịch TMĐT, thường xuyên phối hợp với các lực lượng chức năng và các cơ quan, đơn vị có liên quan trong trao đổi thông tin, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quản lý có hoạt động TMĐT thông qua các website bán hàng, sàn TMĐT, các hình thức mua bán qua mạng xã hội (Facebook, Zalo, Tiktok,…). Từ sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả của các cơ quan, ban, ngành của tỉnh Thái Nguyên, việc triển khai ứng dụng thu thập thông tin tự động của Cục Thuế tỉnh kết hợp với đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nên công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT tại tỉnh Thái Nguyên đã đạt được kết quả tích cực. Đồng thời, Cục Thuế tỉnh Thái Nguyên đã hỗ trợ trực tiếp cho 15 Cục Thuế tỉnh/thành phố thu thập thông tin của các gian hàng trên địa bàn các tỉnh/ thành phố như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Hưng Yên, Lào Cai, Quảng Nam, Quảng Ninh, Thanh Hoá… để cùng phối hợp quản lý tốt nguồn thu. Ứng dụng thu thập thông tin tự động do Cục Thuế tỉnh xây dựng đang được Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính nghiên cứu nhân rộng triển khai trên toàn quốc.
Để tiếp tục tăng cường phối hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ công tác quản lý kinh doanh TMĐT, chống thất thu thuế, tỉnh Thái Nguyên đề xuất 3 giải pháp như sau:
Thứ nhất, đề nghị các bộ, ngành thống nhất nâng cấp, đồng bộ hệ thống quản lý, chuyển từ "sẵn sàng chia sẻ thông tin" sang "chia sẻ thông tin" về các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT để phục vụ công tác quản lý thu thuế đối với các sàn giao dịch TMĐT, các ứng dụng bán hàng trên mạng. Song song với việc bảo mật thông tin cá nhân theo quy định. Cụm từ "phối hợp - đồng bộ - chia sẻ" cần được thể chế hóa thành các văn bản của cơ quan có thẩm quyền để triển khai thực hiện.
Thứ hai, đề nghị Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử thực hiện đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động livestream bán hàng và bảo vệ người tiêu dùng trên không gian mạng.
Thứ ba, đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường kiểm tra, giám sát các giao dịch thanh toán; nâng cao hiệu quả quản lý, vận hành Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, các giao dịch TMĐT; chỉ đạo các tổ chức tín dụng phối hợp cung cấp thông tin giao dịch cho cơ quan chức năng (cơ quan Thuế, quản lý thị trường…) để có cơ sở quản lý thuế từ hoạt động kinh doanh TMĐT theo quy định của pháp luật.
Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Phạm Tấn Công - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công: Hôm nay là gần tròn 1 năm ngày Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ năm 2024. Thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, quyết liệt chỉ đạo việc triển khai Chỉ thị 18 đến từng bộ, ngành và đã nhận diện ra một số điểm nghẽn trong thực hiện Chỉ thị 18 cũng như Đề án 06.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cam kết luôn đồng hành cùng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành trong việc xử lý những điểm nghẽn này cũng như trong các lĩnh vực khác có liên quan đến cộng đồng doanh nghiệp.
Thương mại điện tử là hình thức kinh doanh mới, phát triển nhanh, mang lại nhiều tiện ích cho người tiêu dùng cũng như sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây.
Ngoài các lý do như tiện lợi, tiếp cận lượng khách hàng lớn, không thể phủ nhận tận dụng một số khoảng trống chính sách pháp luật nên thời gian vừa qua có một bộ phận người kinh doanh bán lẻ chuyển sang hình thức thương mại điện tử để né tránh sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng, trong đó có ngành thuế. Đây là thách thức lớn đối với việc quản lý thuế của những đơn vị bán lẻ trên thương mại điện tử. Tuy nhiên, ngoài việc nhìn thương mại điện tử như một thách thức, tôi muốn nhìn thương mại điện tử như một cơ hội đối với việc quản lý thuế những cơ sở bán lẻ. Thương mại điện tử tức là các giao dịch được thực hiện qua con đường điện tử, thông tin về các giao dịch này nằm trên cơ sở dữ liệu của các bên trung gian như sàn TMĐT, các ứng dụng của các ngân hàng, của các đơn vị chuyển phát… Nếu như thu thập được các dữ liệu này để phục vụ quản lý thuế thì hiệu quả mang lại sẽ rất lớn.
Không chỉ mang lại cơ hội để hiện đại hoá thu thuế đối với hoạt động bán lẻ nội địa, dữ liệu thương mại điện tử còn có thể giúp quản lý rất tốt công tác xuất nhập khẩu hàng hoá, gồm thu các loại thuế từ hàng hoá xuất nhập khẩu và kiểm tra chuyên ngành hàng hoá, có tác động rất tích cực cho hoạt động hải quan.
Việc tận dụng dữ liệu từ hoạt động thương mại điện tử để phục vụ quản lý thuế và hải quan là rất có tiềm năng mang lại hiệu quả cao. Để làm được điều này thì cần có sự phối hợp giữa cơ quan thuế, cơ quan hải quan, công an và các đơn vị cung cấp dịch vụ nền tảng trên thương mại điện tử như các sàn giao dịch TMĐT, các ngân hàng và các đơn vị vận chuyển.
VCCI, với tư cách đại diện cộng đồng doanh nghiệp, thường xuyên tham vấn các doanh nghiệp này về tính khả thi của việc kết nối, chia sẻ dữ liệu. Nhìn chung, đa số ý kiến của các doanh nghiệp đồng tình với lợi ích của việc kết nối, chia sẻ dữ liệu, song có nhiều sự khác biệt về nội dung và cách thức thực hiện.
Thực tiễn ban hành và thực thi chính sách thuế cho thấy, nhiều trường hợp cơ quan nhà nước không thể lựa chọn phương án chính sách hợp lý hơn, chỉ vì phương án này không khả thi. Tuy nhiên, TMĐT đã giúp nhiều vấn đề trong quản lý thuế tưởng chừng không khả thi trước đây trở nên hoàn toàn có thể làm được. Ví dụ như việc xác định vị trí tiêu dùng dịch vụ để đánh thuế.
Hiện nay, cơ quan thuế rất lúng túng trong việc xác định dịch vụ xuất khẩu để cho hưởng thuế suất 0%, nên thường sẽ yêu cầu doanh nghiệp nộp thuế 10%. Nhưng với sự phát triển của TMĐT thì các thông tin như địa chỉ vật lý, địa chỉ IP của khách hàng, số điện thoại, thanh toán xuyên biên giới có thể được thu thập một cách đáng tin cậy hơn. Các thông tin này sẽ phục vụ cho việc quản lý thuế.
Do đó, hiện nay cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc sử dụng các thông tin trên nhằm xác định dịch vụ xuất khẩu, nhất là các dịch vụ cung cấp qua internet. Điều này sẽ giúp khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ, vừa giúp tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, mang lại ngoại tệ cho đất nước và củng cố sức mạnh mềm quốc gia.
Thời gian qua VCCI đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, Bộ Tài chính và các bộ ngành khác trong việc xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Thuế Giá trị gia tăng, Nghị định 126 và Nghị định 91 hướng dẫn Luật Quản lý thuế. VCCI tham gia xây dựng các Dự thảo quan trọng như Nghị định hoá đơn điện tử sửa đổi Nghị định 123, Nghị định về quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu qua TMĐT…
Các ý kiến của doanh nghiệp đã được VCCI phản ánh và nhiều ý kiến trong đó đã được các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu. Về cơ bản, các doanh nghiệp tương đối hài lòng với tinh thần đối thoại, cầu thị trong xây dựng pháp luật của ngành thuế và Bộ Tài chính.
Thời gian tới, VCCI tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành huy động và tổ chức cho doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách quản lý nhà nước quản lý thuế đối với hoạt động thương mại. Tuy nhiên, do đây là vấn đề khó và mới, nặng tính kỹ thuật. Các nước phát triển và nhiều tổ chức thế giới cũng mất nhiều thời gian để xây dựng lên các quy tắc, khuyến nghị cho các nước đang phát triển. Do đó, đề nghị ngành thuế tiếp tục nghiên cứu các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, nghiên cứu kinh nghiệm các nước khác để có thể đưa ra phương án chính sách phù hợp. Các doanh nghiệp sẵn sàng cung cấp thông tin, tài liệu để phối hợp cùng cơ quan thuế đưa ra chính sách sao cho vừa bảo đảm việc thu đúng, thu đủ cho ngân sách, nhưng cũng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người nộp thuế, giảm gánh nặng thủ tục hành chính và rủi ro thuế.
Đồng thời, tôi cũng xin đề nghị các bộ, ngành rà soát lại các quy định pháp luật liên quan đến TMĐT thuộc ngành / lĩnh vực do mình quản lý để cùng hướng tới mục tiêu xây dựng nền tảng chính sách pháp luật toàn diện cục bộ phù hợp với thông lệ quốc tế trong quản lý và thúc đẩy pháp triển kinh doanh TMĐT.
10:02 ngày 10/06/2024
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Đề án 06 của Bộ Công an là một bước đột phá - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Chuyển đổi số một là thể chế số, hai là hạ tầng số, ba là nhân lực số, bốn là dữ liệu số, năm là doanh nghiệp số.
Thể chế số quan trọng nhất là phù hợp với môi trường số. Thể chế số cũng cần sự đồng bộ phải đi trước.
Hạ tầng số quan trọng là phủ rộng, không vùng lõm, tốc độ cao và an toàn. Đặc biệt Nhà nước, Trung ương tạo ra hạ tầng chuyển đổi số cấp riêng thành các hạ tầng dùng chung cho toàn quốc, cho các bộ, ngành địa phương như hạ tầng phần cứng, hạ tầng phần mềm, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng an toàn an ninh mạng. Các cơ quan nhà nước phát triển ứng dụng riêng thì thuê dịch vụ các doanh nghiệp công nghệ số thay vì đầu tư.
Nhân lực số thì đầu tiên là nhận thức số của lãnh đạo các cấp, sau đó là đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức, cho người dân thông qua các nền tảng đào tạo số trực tuyến.
Dữ liệu số quan trọng nhất là số hóa toàn bộ, kết nối chia sẻ. Hoạt động của cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước của doanh nghiệp, của người dân được ghi nhận trên môi trường số. Vì nếu không có dữ liệu thì không có đầu vào của chuyển đổi số, và không có đầu vào thì không có đầu ra.
Về doanh nghiệp số, nếu doanh nghiệp không năng động, không giỏi, không linh hoạt, không thích ứng nhanh thì sẽ không chuyển đổi số được.
Một số bài học về chuyển đổi số:
Thứ nhất, làm thí điểm trước, làm cho đến nơi cho đến thành công, rồi phát huy ra cả ngành, cả tỉnh, cả nước.
Thứ hai, dùng nền tảng số, đầu tư một nơi phần cứng một nơi, phần mềm một nơi khai thác một nơi nhưng sử dụng là mọi người trên toàn quốc.
Thứ ba là ứng dụng chi tiết, cái gì mới dùng được, công nghệ chưa dùng bao giờ thì ban đầu cần hướng dẫn, giống như là cầm tay chỉ việc.
Thứ tư là hợp tác chiến lược với doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước phải đi với nhau một chặng đường dài, là đối tác chiến lược của nhau, doanh nghiệp cam kết nguồn nhân lực dành riêng cho dự án chuyển đổi số.
Thứ năm là tìm ra các công thức thành công để nhân rộng. Công thức thành công ngắn gọn, đúng bản chất, dễ hiểu, dễ làm theo, thì tích cực sử dụng... Ví dụ Bộ Công an thì có công thức là đúng, đủ, sạch, sống khi làm cơ sở dữ liệu dân cư.
Chuyển đổi số toàn dân là đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng…
Bộ TT&TT đang trình Thủ tướng Chính phủ ra một chỉ thị về những đột phá chuyển đổi số các ngành, các cấp. Chuyển đổi số là toàn dân, toàn diện nên cần có bước đột phá. Chuyển đổi số sẽ không thành công nếu người đứng đầu các cấp không trực tiếp làm ít nhất 1 dự án chuyển đổi số có tính nền tảng.
Chuyển đổi số là một công việc mới mẻ với người đứng đầu các cấp nên phải trực tiếp làm, đi qua một số đề án cụ thể có đột phá để từ đó chỉ đạo thúc đẩy nhanh chuyển đổi số cơ quan mình. Chỉ có như vậy mới thành công.
Đề án 06 của Bộ Công an là một bước đột phá và đột phá này do trực tiếp đồng chí Bộ trưởng chỉ đạo. Chuyển đổi số của Bộ Công an tác động rất lớn đến chuyển đổi số của quốc gia.
Những đột phá này tác động sâu rộng từ Trung ương đến địa phương, tác động đến toàn dân. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu mỗi bộ, ngành, mỗi địa phương phải tìm ra một hướng, có một đề án như đề án 06 của Bộ Công an, tập trung chỉ đạo hoàn thiện xong và thành công trong 2 năm 2024-2025.
10:07 ngày 10/06/2024
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, đánh giá cao Bộ Công an, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan đã phối hợp chuẩn bị và tổ chức chu đáo Hội nghị.
Hoan nghênh, đánh giá cao và cơ bản thống nhất với nội dung các báo cáo, tham luận, ý kiến phát biểu thẳng thắn, tâm huyết, mang tính xây dựng, Thủ tướng giao Bộ Công an, Bộ Tài chính phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến, hoàn thiện và trình ban hành văn bản chỉ đạo để thống nhất triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới.
Thủ tướng chỉ rõ những kết quả đạt được trong tháo gỡ "điểm nghẽn" Đề án 06 và đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
Thứ nhất, đã có sự chuyển biến tích cực trong công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là người đứng đầu nhằm tháo gỡ 05 "điểm nghẽn" trong triển khai Đề án 06 và Chỉ thị số 18.
Định kỳ hàng tháng, Tổ công tác Đề án 06 đã tổ chức họp giao ban để đánh giá, kiểm điểm kết quả triển khai (11 cuộc). Ban hành nhiều văn bản đôn đốc các bộ, ngành, địa phương về những nhiệm vụ còn chậm tiến độ, xử lý những "điểm nghẽn" của Đề án 06. Các bộ, ngành, UBND địa phương cấp tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án 06 năm 2024; 55/63 địa phương đã ban hành Chỉ thị đẩy mạnh triển khai Đề án 06, nhiều địa phương có các cách làm hay, sáng tạo như Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Nam, Thừa Thiên Huế, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Bình Dương, Khánh Hòa, Quảng Ninh, Nghệ An…
Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các bộ, ngành triển khai quyết liệt Chỉ thị số 18, nhất là trong công tác kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương để thực hiện định danh và xác thực điện tử; đồng bộ dữ liệu dân cư với dữ liệu hộ tịch, thuế, ngân hàng, viễn thông..., từ đó quản lý khá tốt các loại hình kinh doanh thương mại điện tử và đạt kết quả đáng ghi nhận.
Thứ hai, công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý đồng bộ, minh bạch, hiệu lực được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả tích cực.
Trình Quốc hội thông qua 02 Luật (gồm: Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) và Luật Căn cước có hiệu lực từ ngày 01/7/2024); Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định (gồm: Nghị định về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 130 ngày 27/9/2018 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số). Nhiều bộ, ngành đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn tổ chức triển khai Đề án 06.
Đã chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung về công tác quản lý thuế (như: hướng dẫn Luật Quản lý thuế, hóa đơn điện tử; kê khai, nộp thuế, mức thuế suất; cung cấp thông tin, xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đối với hoạt động thương mại điện tử và dịch vụ số xuyên biên giới).
Thứ ba, triển khai Dịch vụ công trực tuyến ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Đã tái cấu trúc quy trình đối với hầu hết các dịch vụ công thiết yếu; đã thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở liên thông điện tử, tái sử dụng dữ liệu số hóa giúp tiết giảm thủ tục, thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp.
Đã đơn giản hóa 763/1.084 thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, đồng thời công bố, cập nhật công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, từ đó điều chỉnh, tái cấu trúc lại quy trình nội bộ, quy trình điện tử để thực hiện thống nhất trên toàn quốc. Đã cung cấp hơn 4,5 nghìn dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Có 62/63 địa phương đã ban hành Nghị quyết về miễn giảm phí, lệ phí thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
Đề án 06 đã cung cấp 25/25 dịch vụ công thiết yếu, giúp tiết kiệm cho nhà nước, xã hội gần 3.500 tỷ đồng/năm. Đã chính thức triển khai thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên VNeID tại Hà Nội và Thừa Thiên Huế, bước đầu phát huy hiệu quả (với nhu cầu 2,6 triệu Phiếu lý lịch tư pháp trên toàn quốc hằng năm, dự kiến tiết kiệm khoảng 637 tỷ đồng mỗi năm).
Thứ tư, kết nối, chia sẻ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành tiếp tục được đẩy mạnh, tạo tiện ích trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến tới người dân, doanh nghiệp.
Cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư đã được kết nối, chia sẻ với 18 bộ, cơ quan và 63 địa phương. Đã cấp trên 86 triệu thẻ căn cước công dân gắn chíp, kích hoạt 54 triệu tài khoản và tiếp nhận hơn 1,5 tỷ yêu cầu xác thực thông tin.
Ứng dụng VNeID được người dân hưởng ứng sử dụng với số lượng truy cập khoảng 29,3 triệu lượt/tháng; doanh nghiệp xác thực căn cước khoảng 500 nghìn lượt/tháng; 100% học sinh nộp hồ sơ và xét điểm ưu tiên thông qua dữ liệu dân cư.
Đã đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu để tăng cường công tác quản lý thuế và phát triển thương mại điện tử (Rà soát thông tin của cá nhân, hộ kinh doanh để tiến tới sử dụng mã số định danh cá nhân thay cho mã số thuế với tỷ lệ khớp đúng đạt 91,36%; có thể sử dụng tài khoản định danh điện tử VNeID để thực hiện thủ tục thuế trên ứng dụng eTax Mobile. Chia sẻ dữ liệu 929 sàn giao dịch thương mại điện tử, 284 ứng dụng bán hàng trên mạng và 144 triệu tài khoản thanh toán tại 96 ngân hàng thương mại).
Thứ năm, hạ tầng số được quan tâm đầu tư và đạt một số kết quả tích cực, nhất là Trung tâm dữ liệu quốc gia đang được tích cực triển khai.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng trân trọng biểu dương những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được nêu trên của các bộ, ngành, địa phương trong tháo gỡ các "điểm nghẽn" đối với Đề án 06 và thực hiện Chỉ thị số 18 để thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, chuyển đổi số quốc gia.
Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Theo Thủ tướng, bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận, công tác triển khai Đề án 06 và kết nối, chia sẻ dữ liệu trong thời gian tới vẫn đối diện một số tồn tại, hạn chế.
Một là, tiến độ xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách vẫn chậm so với yêu cầu.
Vẫn còn 03/06 Nghị định chưa được ban hành đúng thời hạn. Còn 1 địa phương chưa hoàn thành việc ban hành các Nghị quyết miễn, giảm phí lệ phí thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
Việc rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính còn chậm, vẫn còn 317 thủ tục được quy định tại 65 văn bản quy phạm pháp luật, gồm: 01 luật, 26 nghị định, 08 thông tư liên tịch, 30 thông tư cần tiếp tục sửa đổi. Đặc biệt, việc tái cấu trúc, quy trình nghiệp vụ các thủ tục hành chính còn rất chậm, nhất là với các thủ tục liên quan đến nhiều cơ quan.
Thể chế, cơ chế, chính sách về thương mại điện tử còn chậm thay đổi, chưa bám sát tình hình thực tế và phù hợp với thông lệ quốc tế; chưa xây dựng chiến lược về phát triển thương mại điện tử mang tính dài hạn.
Hai là, phát triển hạ tầng số còn nhiều bất cập, chưa khắc phục được tình trạng "manh mún, cát cứ thông tin, chia cắt và co cụm dữ liệu".
Vẫn còn các thôn, bản "trắng" sóng, "lõm" sóng, chưa có điện lưới để đáp ứng nhu cầu của người dân và phục vụ công tác chuyển đổi số, Đề án 06 và phát triển thương mại điện tử.
Tỉ lệ tái sử dụng lại thông tin, dữ liệu số hóa phục vụ giải quyết thủ tục hành chính còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương còn gặp khó khăn, chưa đồng bộ, tương thích về mặt kỹ thuật.
Triển khai định danh và xác thực điện tử, đồng bộ dữ liệu dân cư với dữ liệu hộ tịch, thuế, ngân hàng, viễn thông... còn chậm; định danh, xác thực cá nhân, tổ chức, triển khai hóa đơn điện tử còn gặp nhiều khó khăn, rào cản.
Ba là, công tác an ninh mạng, an toàn thông tin ở nhiều nơi còn chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng tấn công mạng có xu hướng gia tăng. Vẫn còn tình trạng chưa bảo đảm về an toàn thông tin, lộ lọt dữ liệu công dân, gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân.
Bốn là, quản lý thuế, nhất là thu thuế với dịch vụ livestream, thương mại điện tử, dịch vụ ăn uống ở các địa phương… còn thất thoát.
Năm là, công tác tuyên truyền về triển khai Đề án 06 chưa được thường xuyên, liên tục, nhất là về mô hình hay, cách làm tốt, hiệu quả để các nơi tham khảo, học tập, nhân rộng.
TỔNG THUẬT: Thủ tướng chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm tháo gỡ "điểm nghẽn' trong triển khai Đề án 06 và đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử- Ảnh 3.
Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng chỉ rõ, từ sơ kết công tác triển khai trong thời gian qua và trên cơ sở nhận diện những tồn tại, hạn chế đã nêu, chúng ta rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau để lưu ý quán triệt trong thời gian tới:
Thứ nhất, phải quán triệt, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuân thủ nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương để thúc đẩy triển khai Đề án 06 và phát triển thương mại điện tử. Huy động sự vào cuộc, tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, là quan trọng, phải quan tâm, đầu tư về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, hoàn thiện thể chế, xây dựng hạ tầng, đào tạo nhân lực, tạo phong trào, xu thế để làm.
Thứ hai, phải quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động rất quyết liệt, hiệu quả hơn, đặc biệt là của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương. Chỉ đạo điều hành và tổ chức triển khai đồng bộ, linh hoạt, xác định rõ ưu tiên, trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó, không dàn trải, kéo dài.
Thứ ba, phải đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách, thí điểm các mô hình mới trong triển khai Đề án 06 và phát triển thương mại điện tử đáp ứng yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển.
Thứ tư, phải lấy người dân, doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm trong chuyển đổi số, triển khai Đề án 06 và phát triển thương mại điện tử; để người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng những thành quả từ chuyển đổi số, Đề án 06 và thương mại điện tử mang lại; minh bạch hóa và tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trên tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.
Thứ năm, phải luôn giữ vững kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới, tăng cường kiểm tra, giám sát; kiên quyết phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; đẩy mạnh truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân.
5 nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới
Theo Thủ tướng, trong thời gian tới, để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, trong đó có việc triển khai hiệu quả Đề án 06 và phát triển thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là hết sức nặng nề nhưng vô cùng quan trọng và không kém phần vẻ vang.
Thủ tướng yêu cầu toàn thể các đồng chí, nhất là bộ trưởng, trưởng ngành, thủ trưởng các cơ quan, Chủ tịch UBND các địa phương nêu cao tinh thần trách nhiệm, "không nói không, không nói khó, không nói có nhưng không làm", phát huy quyết tâm "đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, đã làm, đã thực hiện là có kết quả cân đong đo đếm được", "chỉ bàn làm, không bàn lùi", tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau để xử lý dứt điểm các điểm nghẽn, tồn tại:
(1) Khẩn trương hoàn thiện thể chế phục vụ phát triển dữ liệu về dân cư, kết nối, chia sẻ dữ liệu nói riêng và chuyển đổi số quốc gia nói chung; các bộ ngành, địa phương phải chủ động, tích cực, sáng tạo theo thẩm quyền, không trông chờ, không ỷ lại.
- Bộ Công an khẩn trương hoàn thiện đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và Luật Dữ liệu; sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định về định danh và xác thực điện tử để thay thế Nghị định số 59/2022/NĐ-CP. Khẩn trương hoàn thiện, trình ban hành Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Căn cước, đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành rà soát, nghiên cứu sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý dân cư; thống nhất phương án đơn giản hóa triệt để 317 thủ tục hành chính liên quan đến khai thác dữ liệu công dân.
- Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu, tham mưu Chính phủ về đề xuất sửa đổi các Luật và văn bản hướng dẫn liên quan đến thương mại điện tử, nhất là Luật Bảo vệ người tiêu dùng; nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển thương mại điện tử nhằm quản lý, phát triển bền vững các nền tảng thương mại điện tử trong nước, xuyên biên giới, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm tính cạnh tranh và ngăn chặn có hiệu quả các hành vi bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng kém chất lượng.
- Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về áp dụng hóa đơn điện tử đối với các giao dịch thương mại điện tử, dịch vụ livestream, dịch vụ ăn uống...
- Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương xây dựng, hoàn thiện để trình Chính phủ ban hành các văn bản thi hành Luật Giao dịch điện tử (có hiệu lực từ ngày 01/7/2024); Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Bộ Nội vụ khẩn trương xây dựng, hoàn thiện để trình Chính phủ ban hành các văn bản thi hành Luật Lưu trữ (sửa đổi).
- Văn phòng Chính phủ khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ ban hành Nghị định liên thông điện tử với 02 nhóm thủ tục hành chính liên thông; hoàn thiện tài liệu hướng dẫn mô hình mẫu về Bộ phận một cửa cung cấp dịch vụ công theo hướng kết hợp bộ phận một cửa của các đơn vị hành chính các cấp trên địa bàn.
(2) Đẩy mạnh đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính để nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ công cung cấp cho người dân.
- Bảo đảm các điều kiện cần thiết để từ ngày 01/7/2024 chuyển đổi sang sử dụng VNeID là tài khoản duy nhất trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trên môi trường điện tử.
- Hướng dẫn các cơ sở y tế và người dân sử dụng thông tin sổ sức khỏe điện tử trên VNeID; khẩn trương đánh giá những dịch vụ công đang thí điểm hiệu quả như cấp phiếu lý lịch tư pháp trên VNeID tại Thừa Thiên Huế và Hà Nội để nhân rộng trên toàn quốc.
- Các bộ, cơ quan, địa phương khẩn trương hoàn thành việc kết nối Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh với Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Cổng dịch vụ công quốc gia phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công (theo đúng chỉ đạo tại Chỉ thị số 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
Thủ tướng đề nghị tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án 06, đồng thời thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số, thúc đẩy thương mại điện tử nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, mang lại lợi ích cụ thể, thiết thực cho người dân và doanh nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
(3) Đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các bộ ngành, địa phương, tạo tiền đề cho phát triển, khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia và hình thành kho thông tin định danh số cho công dân, tổ chức trong thực hiện các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh tích hợp đồng bộ, liên thông giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia để phát triển Chính phủ số và thúc đẩy các giao dịch thương mại trên môi trường số được thường xuyên, liên tục, an toàn.
(4) Đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế và thực hiện đồng bộ các giải pháp về hóa đơn điện tử, nhất là trong quản lý hoạt động thương mại điện tử.
- Đẩy mạnh số hóa, làm giàu cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương; xây dựng và đưa vào vận hành cơ sở dữ liệu dùng chung về thương mại điện tử.
- Quyết liệt thực hiện các giải pháp về hóa đơn điện tử, các địa phương quan tâm bố trí nguồn lực để triển khai hóa đơn điện tử trong bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng. Rà soát, xử lý nghiêm các vi phạm của các cơ sở kinh doanh không xuất hóa đơn điện tử.
(5) Các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chủ động rà soát, khắc phục hiệu quả 6 nhóm vấn đề hạn chế, tồn tại, khuyết điểm như báo cáo của Bộ Công an đã chỉ ra, có lộ trình thực hiện (về pháp lý, dịch vụ công trực tuyến, hạ tầng số, an ninh, an toàn mạng, nguồn lực, chỉ đạo, điều hành…)
Về các kiến nghị, Thủ tướng giao VPCP tổng hợp, phân công các bộ ngành xử lý theo thẩm quyền và có lộ trình hoàn thành phù hợp; nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Theo Thủ tướng, 02 năm rưỡi vừa qua là chặng đường không ngắn nhưng cũng chưa dài đối với nhiệm vụ thực hiện Đề án 06 của chúng ta nói riêng và công cuộc chuyển đổi số quốc gia nói chung. Phía sau chúng ta là những kết quả triển khai rất ấn tượng nhưng hết sức cơ bản, và phía trước chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn, đề nghị các bộ trưởng, trưởng ngành, thủ trưởng các cơ quan, Chủ tịch UBND các địa phương với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, cùng sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án 06, đồng thời thực hiện hiệu quả việc kết nối, chia sẻ dữ liệu nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số, thúc đẩy thương mại điện tử nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, mang lại lợi ích cụ thể, thiết thực cho người dân và doanh nghiệp.