TS. Nguyễn Thị Thu Huyền - chủ nhiệm đề tài báo cáo kết quả tại hội nghị.
Theo báo cáo, tại Hải Phòng mỗi năm có khoảng 4.000 bệnh nhân bị đột quỵ. Mặc dù các phương pháp điều trị đột quỵ não giai đoạn cấp đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, tuy nhiên có đến 95% người bệnh vượt quá “giờ vàng” (quá 4,5 giờ từ khi có dấu hiệu khởi phát) và điều trị phác đồ kinh điển để lại di chứng tàn tật cao, trong đó có co cứng cơ, gây ảnh hưởng đến nhiều chức năng như vận động, sinh hoạt, gây đau đớn, loét da, biễn chứng khớp, thay đổi tâm sinh lý, mặc cảm hình thể, rối loạn giấc ngủ… Vì vậy, nghiên cứu kỹ thuật điều trị co cứng cho bệnh nhân sau đột quỵ là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu phục hồi của người bệnh.
Tại Việt Nam và trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sử dụng Botulinum nhóm A trong điều trị co cứng cơ bằng đường đường tiêm, đưa trực tiếp thuốc đến cơ cần điều trị giúp giảm co cứng. Việc đưa thuốc này đến cơ cần nhiều kỹ thuật và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả điều trị. Kỹ thuật chủ yếu là tiêm thuốc theo chẩn đoán hoặc sử dụng máy kích thích cầm tay phát ra dòng xung Burst và quan sát đáp ứng vận động của cơ để tìm cơ cần tiêm. Cả 2 phương pháp đều có nguy cơ không chon lựa chính xác cơ hoặc chệch vị trí điểm tiêm thuốc… Nghiên cứu ứng dụng máy điện cơ sử dụng các điện cực để dẫn truyền hay phát hiện các tín hiệu điện do dây thần kinh hoặc cơ bắp phát ra và có thể sử dụng điện cực để châm trực tiếp vào cơ bắp để ghi lại hoạt động điện của cơ đó, dựa vào sự kết tập của điểm vận động cơ cho phép lựa chọn chính xác vị trí cơ có chất lượng tốt nhất để tiêm, qua đó tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm thuốc tiêm.
Từ quá trình điều trị cho 30 bệnh nhân bị co cứng cơ sau đột quỵ não tại Khoa Nội thần kinh bằng thuốc Botulinum Toxin nhóm A kết hợp với máy điện cơ, TS. Nguyễn Nguyễn Thị Thu Huyền và các cộng sự đã nghiên cứu, xây dựng thành công quy trình kỹ thuật điều trị, xuất bản tài liệu hướng dẫn và tiến hành đào tạo chuyên môn cho các bác sĩ, điều dưỡng tại Khoa Nội thần kinh.
Đánh giá tại thời điểm 1 và 3 tháng điều trị cho bệnh nhân bị co cứng cơ sau đột qụy não so với lúc vào viện, khi sử dụng 3 tiêu chí: 1- mức độ đau theo thang điểm đau (VAS); 2- triệu chứng co cứng cơ vùng chi ở mức độ vừa hoặc nặng (bậc 1+, 2 và 3) theo phân loại Ashworth cải biên (MAS) và 3- mức độ độc lập trong sinh hoạt hằng ngày theo thang điểm Barthel đều cho thấy sự phục hồi rất khả quan. Đặc biệt không thấy tình trạng giảm hoặc mất chức năng vận động do đánh giá sai vị trí tiêm. Liều lượng thuốc tiêm giảm trong khi số vị trí tiêm/1 cơ tăng lên đáng kể so với khuyến cáo của Bộ Y tế (liều lượng tiêm theo Huber M. và Heck G năm 2002).
Tại hội nghị, Hội đồng khoa học đánh giá đây là đề tài nghiên cứu tỉ mỉ, công phu, rất cần thiết tại Việt Nam, là hướng đi mới giúp cải thiện chất lượng điều trị cho bệnh nhân co cứng cơ sau đột quỵ khi được ứng dụng rộng rãi tại các bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm phục hồi chức năng.