Gừng có tên khoa học là Zingiber officinale Rose. Theo Đông y, gừng có vị cay, tính ấm, quy vào các kinh phế, tỳ, vị, thường được sử dụng để chữa các chứng phong hàn và kích thích tiêu hóa. Gừng được trồng ở nhiều vùng, dùng để làm gia vị và làm thuốc. Ở Nghệ An, gừng được trồng từ lâu đời ở huyện miền núi Kỳ Sơn, chủ yếu tại các xã Mường Lống, Mường Típ, Nậm Càn, Bảo Thắng, Huồi Tụ, Mường Ải, Đoọc Mạy, Na Ngoi, Tây Sơn, Bắc Lý,…, nơi tập trung đồng bào dân tộc người H’mông sinh sống. Từ cách đây hàng trăm năm, cây gừng đã được bà con địa phương người H’Mông trồng. Nhờ có chất lượng tốt nên sản phẩm củ gừng được bạn hàng các nước như Banglades, Ấn Độ, Pakistan và các quốc gia khu vực Trung Á như Uzbekistan, Turkmenistan, Kazakhstan rất ưa chuộng.
Ở Kỳ Sơn, người dân địa phương sản xuất hai loại gừng là gừng dé và gừng trâu. Gừng dé dùng để tiêu thụ nội địa là chủ yếu còn gừng trâu hướng tới xuất khẩu. Sản phẩm gừng “Kỳ Sơn” chế biến ra tinh dầu, làm gia vị, hương liệu, dược liệu, thực phẩm…
Hình 1: Gừng Kỳ Sơn
Hình 2: Gừng Kỳ Sơn
Gừng “Kỳ Sơn” có những đặc điểm về hình thái và chất lượng đặc thù có thể dễ dàng phân biệt so với các loại củ gừng ở các vùng khác. Gừng dé “Kỳ Sơn” củ nhỏ, thân tròn, nhiều nhánh. Vỏ và ruột màu trắng ngà, lõi màu vàng nhạt, nhiều xơ. Mùi thơm đặc trưng, vị cay nồng đậm. Hàm lượng nước từ 91,09% đến 92,61%, chất cay (gingerol) tính theo chất khô từ 1,85% đến 3,33%, hàm lượng đường từ 1,16% đến 1,27%, protein từ 1,52% đến 1,87%, chất xơ từ 0,81% đến 0,91%, hàm lượng tinh dầu tính theo chất khô từ 3,52% đến 8,31%. Gừng trâu “Kỳ Sơn” củ to, thân tròn, ít nhánh. Vỏ và ruột màu trắng, lõi màu vàng nhạt, ít xơ. Mùi thơm đặc trưng, vị cay nồng, cay đậm. Hàm lượng nước từ 91,06% đến 93,66%, chất cay (gingerol) tính theo chất khô từ 1,45% đến 2,34%, hàm lượng đường từ 1,13% đến 1,25%, protein từ 1,50% đến 1,62%, chất xơ từ 0,70% đến 0,79%, hàm lượng tinh dầu tính theo chất khô từ 3,16% đến 4,12%. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ cay và hàm lượng tinh dầu là yếu tố đặc thù của gừng Kỳ Sơn.
Gừng ở Kỳ Sơn được trồng tại các xã Na Ngoi, Bảo Thắng, Đoọc Mạy, Mường Lống, Huồi Tụ, Tây Sơn, Nậm Cắn, Nậm Càn, Mường Ải, Mường Típ, Keng Đu, Na Loi, Bắc Lý, Mỹ Lý và Bảo Nam. Đây là khu vực có địa hình chủ yếu là núi cao trên 700m so với mực nước biển, có nhiều lớp lượn sóng, hiểm trở, độ dốc tương đối lớn, độ dốc trung bình 35o. Nơi đây quanh năm có sương mù bao phủ, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ không khí trung bình từ 20oC đến 25oC, độ ẩm lớn. Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, lượng mưa trung bình năm từ 1.500mm đến 2.000mm, độ ẩm trung bình 83%, tổng lượng bốc hơi từ 900mm đến 1.100mm.
Hình 3: Khu vực trồng gừng ở xã Na Ngoi
Hình 4: Hoa gừng ở Kỳ Sơn
Thổ nhưỡng ở Kỳ Sơn có độ ẩm từ 23% - 29%, tỷ trọng trung bình từ 2,42 - 2,49g/cm3. Độ pHKCL từ 4,21 - 5,10, pHH2O từ 4,92 - 5,78. Đất giàu mùn, hàm lượng cacbon hữu cơ tổng số từ 2,48 - 3,40%, đạm tổng số từ 0,24 - 0,31%, lân tổng số từ 0,15 - 0,26%. Đặc thù của gừng “Kỳ Sơn” được quyết định nhờ tính chất đất như Môlípđen, Đồng, Kẽm, Đạm tổng số, Lân tổng số, Kali tổng số, Kali dễ tiêu, độ chua của đất và hàm lượng sét trong đất. Đặc biệt, hàm lượng Kali tổng số, Kali dễ tiêu có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự hình thành các chất cay Gingerol và hàm lượng tinh dầu trong củ gừng.
Bên cạnh yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến chất lượng của gừng Kỳ Sơn, kinh nghiệm, bí quyết của người sản xuất cũng làm nên đặc thù của sản phẩm. Ngay từ khâu chọn giống, người dân đã lựa chọn những củ chắc, không non, không già, màu sáng bóng, khoảng 10 - 11 tháng tuổi làm giống, lựa chọn mùa vụ canh tác phù hợp với điều kiện khí hậu nơi quanh năm có sương mù, thường xuyên vun gốc trong quá trình chăm sóc để cây sinh trưởng tốt hay canh tác theo phương thức bỏ hóa từ 2 đến 3 năm. Đặc biệt, người dân trồng gừng huyện Kỳ Sơn đã tuân thủ đúng các quy trình kỹ thuật về trồng gừng hữu cơ hoàn toàn sạch. Tất cả những bí quyết trên đã tạo cho gừng Kỳ Sơn có tính đặc thù riêng và được người tiêu dùng tin tưởng.