GS. TS. Lê Đức Tố - Chủ nhiệm Chương trình cho biết, Chương trình gồm 28 đề tài với mục tiêu xây dựng luận cứ khoa học cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quản lý tổng hợp vùng biển, đảo, vùng ven biển nước ta. Trên cơ sở đó đề xuất những cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với bảo đảm an ninh, quốc phòng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bền vững. Chương trình làm rõ một số vấn đề cơ bản của Biển Đông; nghiên cứu, đề xuất kiến nghị việc áp dụng các phương pháp tiên tiến cho dự báo biển, nuôi trồng, khai thác, quản lý nguồn lợi hải sản, xây dựng công trình biển, phục vụ cho việc điều tra, tìm kiếm khoáng sản, phát triển các ngành kinh tế biển (công nghiệp khai thác, vận tải, du lịch, dịch vụ hàng hải), bảo vệ môi trường sinh thái và an ninh quốc phòng biển. Đồng thời nâng cao tiềm lực và khả năng hội nhập quốc tế về KH&CN biển của Việt Nam.
Chương trình KC.09/06-10 đã có những tiến bộ lớn về lĩnh vực KH&CN biển, nhiều đề tài đã có các sản phẩm ứng dụng thực tiễn. Một số sản phẩm của các đề tài đã được chuyển giao ứng dụng như: Quy trình cảnh báo hiện tượng phát sinh thủy triều đỏ do ô nhiễm môi trường (đề tài KC.09.03/06-10) đã được chuyển giao cho Sở KH&CN Bình Thuận; luận chứng kinh tế kỹ thuật các khu bảo tồn biển Phú Quốc, Côn Đảo, Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các địa phương sử dụng, đưa vào quy hoạch 16 khu bảo tồn biển của Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của đề tài KC.09.07/06-10 gồm hệ thống chỉ tiêu kỹ thuật xây dựng công trình cho các đảo san hô trên quần đảo Trường Sa. Các chỉ tiêu kỹ thuật tương tác công trình dạng tấm, vòm, ống trên các đảo san hô của quần đảo Trường Sa đã được Bộ Tư lệnh Công binh, Bộ Quốc Phòng sử dụng trong việc xây dựng các công trình quốc phòng trên đảo,…
100% các đề tài đã có kết quả công bố trên các tạp chí KH&CN có uy tín trong nước và quốc tế. 212 bài báo, trong đó có 24 bài của 11 đề tài được đăng trên tạp chí quốc tế. 5 đề tài có 10 kết quả nghiên cứu đã đăng ký sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ trong đó có 4 kết quả đã được cấp bằng. Chương trình đã xuất bản 7 cuốn sách chuyên khảo dựa trên kết quả nghiên cứu của các đề tài và 4 tuyển tập các kết quả nghiên cứu của chương trình đã được phổ biến. Thông qua Chương trình đã hình thành các nhóm nghiên cứu khoa học mới. Các nhà khoa học biển Việt Nam đã được nâng cao một bước về công nghệ nghiên cứu, về khả năng hợp tác và hội nhập quốc tế.
Hầu hết các sản phẩm của đề tài thuộc Chương trình đều có tính mới, đạt trình độ quốc gia có thể được áp dụng trong nghiên cứu và sản xuất mang lại hiệu quả về mọi mặt, trong đó 36% tổng số các đề tài đã được ứng dụng trong sản xuất, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án nghiên cứu sản xuất, xây dựng các khu bảo tồn biển và thiết kế xây dựng công trình biển vùng nước sâu phục vụ khai thác dầu khí và trên các đảo san hô. 100% các đề tài có tham gia đào tào tiến sỹ và thạc sỹ, trong đó 68 thạc sỹ khoa học đã bảo vệ, tham gia đào tạo 61 tiến sỹ, trong đó 16 người đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Lê Đình Tiến đánh giá cao những đóng góp của Ban Chủ nhiệm Chương trình, các chủ nhiệm đề tài, các nhà khoa học để có được những kết quả đáng ghi nhận trên. Thứ trưởng bày tỏ mong muốn các nhà khoa học làm thế nào để chuyển giao kết quả nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn. Thứ trưởng nhấn mạnh, trong thời gian tới, hợp tác quốc tế là một trong những vấn đề cần phải đẩy mạnh, làm sao chương trình về biển phải gắn với hợp tác quốc tế trong định hướng chung để nghiên cứu nâng cao trình độ về KH&CN, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.