I. Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng: nội dung liên quan đến phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ
1. Tình hình
Trong những năm qua,
khoa học và công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội
trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong
việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát
triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá
trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Lĩnh vực khoa học tự nhiên, các ngành khoa học
cơ bản, khoa học và công nghệ liên ngành, khoa học mới tiếp tục phát triển, góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Một số ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực phát triển
kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệu quả hoạt động khoa học
và công nghệ có chuyển biến; tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên. Quản
lý nhà nước về khoa học và công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học và
công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học và công nghệ đã hình thành và bước
đầu phát huy tác dụng.
Tuy nhiên, khoa học
và công nghệ chưa thực sự gắn kết, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học và công nghệ chưa được chú trọng.
Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho
khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm.
Công tác quy hoạch, phát triển khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc
tế về khoa học và công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
2. Phương hướng, nhiệm
vụ
Phát triển mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng
đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đến năm 2020, khoa
học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu
ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
Phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một
bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các ngành khoa học và công nghệ có
nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và triển khai đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển
kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc. Xác định
rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động,
hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về
tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch
phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính
sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn
lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng chiến lược phát triển
công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển
giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta. Tăng cường
hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, phải là hướng ưu tiên
trong hội nhập quốc tế.
Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là
cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.
Có cơ chế thúc đẩy đổi
mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Huy động mạnh
mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học
và công nghệ.
Quy hoạch, sắp xếp lại
hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện
đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và
công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Thực hiện cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Tăng cường liên kết
giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên
kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
Xây dựng và thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường
thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng
tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Kiện toàn, nâng cao
năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả
cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.
Phát huy và tăng cường
tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện
khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao,
vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
II. Báo cáo đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020: một số nội
dung liên quan đến khoa học và công nghệ
2.1. Báo cáo đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015
Các kết quả đạt được về khoa học và công nghệ
Chất lượng tăng trưởng
nhiều mặt được nâng lên, đóng góp của khoa học và công nghệ tăng; năng suất lao
động tăng bình quân 4,2%/năm, cao hơn giai đoạn trước; vốn đầu tư được sử dụng
hiệu quả hơn; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng
giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 29%.
Phát triển nguồn nhân
lực và khoa học và công nghệ đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học và công nghệ tiếp tục
được hoàn thiện.
Tiềm lực khoa học và
công nghệ được tăng cường. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công
nghệ tăng bình quân 16,5%/năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu
tư xã hội cho khoa học và công nghệ tăng nhanh, ước đạt 1,3% GDP vào năm 2015.
Khoa học cơ bản đã có bước phát triển. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ
có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông
tin và truyền thông,... Các quỹ về khoa học và công nghệ được thành lập, bước đầu
đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Phát triển thị trường khoa học và công
nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng
bình quân 13,5%/năm. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu quả giữa viện, trường
với doanh nghiệp trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Hạ tầng thông tin
truyền thông phát triển mạnh, đã phóng thành công và đưa vào sử dụng Vệ tinh
Vinasat-2. Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể
thao, du lịch,... được quan tâm đầu tư.
Các hạn chế, yếu kém
về khoa học và công nghệ
Phát triển nguồn nhân
lực và ứng dụng khoa học và công nghệ còn chậm. Khoa học và công nghệ chưa thật
sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chưa có giải pháp đủ mạnh để khuyến khích
doanh nghiệp và thu hút đầu tư tư nhân cho nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng khoa
học và công nghệ. Đầu tư cho khoa học và công nghệ hiệu quả chưa cao. Việc xã hội
hóa các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập còn chậm. Tiềm lực khoa
học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu quả sử dụng các phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn thấp. Thị trường
khoa học và công nghệ phát triển còn chậm, nhất là việc chuyển giao công nghệ.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, nhất là về tài chính, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài. Việc sử dụng ngân sách
nhà nước cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Năng lực đội
ngũ khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học đầu ngành. Số lượng
sáng chế, công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín còn
ít.
Ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, cơ giới hóa, công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ
sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu.
2.2. Phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020
Nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu liên quan đến khoa học và công nghệ
Tập trung phát triển
hạ tầng kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học và công nghệ.
Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa, dịch vụ,
tài chính, tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học và công nghệ,... đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển đồng bộ thị
trường khoa học và công nghệ. Có cơ chế, chính sách phù hợp để đẩy mạnh thương
mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ và phát triển sàn giao dịch. Tăng cường
chuyển giao công nghệ, phát triển các tổ chức chuyển giao công nghệ, kết nối
cung - cầu, kết nối thị trường trong nước với khu vực và thế giới gắn với bảo hộ
sở hữu trí tuệ. Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công
nghệ, hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
Đổi mới mô hình tăng
trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng
với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước,
không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh.
Đẩy mạnh cơ cấu lại
nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn;
tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Khuyến khích liên kết
giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học và công nghệ
và doanh nghiệp.
Có cơ chế, chính sách
khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các loại
giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và
thích ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm,
nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Đẩy nhanh phát triển
các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và công nghệ, có tỉ trọng giá trị
quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tăng cường nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc khai thác
hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên biển.
Hỗ trợ doanh nghiệp đầu
tư nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ, chú
trọng ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia hiệu quả
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong và ngoài nước.
Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ. Gắn đào tạo với
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và thu hút các nhà khoa học tham gia
giảng dạy.
Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Tăng cường tiềm lực khoa học và
công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực
sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thực hành dân chủ, tôn trọng
và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của
các nhà khoa học. Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ.
Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Đổi mới cơ
chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức
khoa học và công nghệ công lập. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản trí tuệ,
tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các vi phạm. Hỗ trợ nhập
khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công
nghệ.
Có cơ chế đặc thù để
phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ trọng điểm theo mô hình
tiên tiến và triển khai những dự án khoa học và công nghệ quan trọng phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế đặt
hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra và công khai, minh bạch chi
phí, kết quả nghiên cứu. Giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân chủ trì nghiên cứu, đồng
thời có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý. Nâng cao hiệu quả hoạt động các quỹ về
phát triển khoa học và công nghệ; khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng cường
kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với
hoạt động khoa học và công nghệ.
Sử dụng hiệu quả nguồn
vốn ngân sách nhà nước và có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực ngoài nhà
nước đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ. Xây dựng một
số viện nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, phát triển các
trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ. Tạo thuận lợi thúc đẩy phát
triển mạnh doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Có chính sách đào tạo, phát triển,
trọng dụng và tôn vinh đội ngũ khoa học và công nghệ. Khuyến khích các nhà khoa
học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa
học và công nghệ tại Việt Nam./.
Tổng
hợp văn kiện Đại hội XII của Đảng (theo Báo Điện tử Chính phủ, 24/3/2016)