Theo đó, nhiệm vụ đầu tiên là tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế để đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH&CN. Theo Chương trình, sẽ sửa đổi Luật KH&CN và xây dựng các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa các nội dung đổi mới như lập kế hoạch, phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN phù hợp với đặc thù của lĩnh vực KH&CN và nhu cầu phát triển của quốc gia, ngành, địa phương, theo hướng căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí KH&CN của Bộ, ngành, địa phương. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN và khoán kinh phí theo kết quả đầu ra. Mở rộng áp dụng cơ chế tài chính của quỹ phát triển KH&CN trong quản lý và thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Hỗ trợ doanh nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển; sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước và xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa nhiệm vụ “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính” của Nghị quyết 20; sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ và xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành; nghiên cứu, xây dựng chính sách hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực ưu tiên, cơ chế Nhà nước chủ động mua kết quả KH&CN và hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học,…; xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, sử dụng và trọng dụng cán bộ KH&CN.
Thứ ba, triển khai các định hướng, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu. Cụ thể, tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020, chú trọng vào các định hướng đã nêu trong Chiến lược; xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực toán, vật lý, hóa học, khoa học sự sống, khoa học trái đất và khoa học biển, các chương trình KH&CN liên ngành; tổ chức thực hiện có hiệu quả các đề án, chương trình quốc gia, chương trình cấp nhà nước về KH&CN; chú trọng ứng dụng KH&CN để khai thác có hiệu quả các lợi thế và điều kiện đặc thù của từng vùng, nhất là khu vực nông thôn, miền núi, hình thành các sản phẩm chủ lực của mỗi vùng.
Thứ tư, phát huy và tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia. Chương trình nêu rõ, sẽ xây dựng Quy hoạch hệ thống tổ chức KH&CN của cả nước phù hợp với các mục tiêu, định hướng nhiệm vụ phát triển KH&CN trong từng giai đoạn, gắn với thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập. Trong đó, tập trung đầu tư phát triển Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2 đại học quốc gia và một số trường đại học trọng điểm, một số viện nghiên cứu đạt trình độ tiên tiến ở Châu Á. Hình thành các trung tâm nghiên cứu hiện đại trong các lĩnh vực ưu tiên gắn với các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, phòng thí nghiệm chuyên ngành, có liên kết với các tổ chức KH&CN tiên tiến nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng Đề án hình thành Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc (VKIST); tập trung nguồn lực đầu tư và đưa vào hoạt động có hiệu quả ba Khu công nghệ cao Hòa Lạc, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Xây dựng quy hoạch các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương; nghiên cứu, xây dựng Đề án hình thành Bảo tàng KH&CN Việt Nam.
Thứ năm, phát triển thị trường KH&CN. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020; đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới; tổ chức có hiệu quả Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, xây dựng quy định về đánh giá, định giá tài sản trí tuệ, chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ; xây dựng, thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường trong nước, ngăn chặn nhập khẩu các sản phẩm, công nghệ lạc hậu;...
Cuối cùng là hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN. Chương trình nêu rõ, sẽ tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020. Xây dựng và triển khai Chương trình hợp tác nghiên cứu chung song phương và đa phương về KH&CN, Chương trình tìm kiếm, giải mã và chuyển giao công nghệ nước ngoài về Việt Nam…; xây dựng chính sách thu hút các chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN ở Việt Nam.
Việc ban hành Chương trình hành động Nghị quyết số 20-NQ/TW nhằm xác định nhiệm vụ để các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 20, hướng đến phát triển mạnh mẽ KH&CN, đưa KH&CN thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 29/3/2013.